Lăn lóc – một cụm từ đôi có nghĩa là sự vật nào đó lăn đi lăn lại, nhảy lên, trườn tới qua nhiều vị trí… Vậy tại sao từ “cù” lại chen ngang, “chia uyên rẽ thúy” giữa lăn lóc để trở thành “cù lăn cù lóc”? Lý do đơn giản là chính “cù” mới phản ánh rõ nét nhất của hành động lăn và lóc, bởi vật ấy phải tròn. Từ “cù” xuất phát từ từ Hán – Việt “cầu” mà ra, nhằm chỉ vật hình tròn.
Ở miền Nam, có hòn cù/ trái cù trong ngôn từ. Nó được sử dụng trong trò chơi như đánh cù, cù khăng, thể hiện qua cách nói “lăn như trái cù”. Trái cù ấy, theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895): “Trái tròn để mà đánh trổng”. Cách giải thích này khá khó hiểu bởi từ trổng/ đánh trổng. Tuy nhiên, tự vị này cho biết: “Đánh trổng: Cuộc chơi trái cù, hai người cầm lấy hai đoạn cây đánh trái cù qua lại mà giành đàng đất; người mạnh mẽ hoặc biết cách đánh trái cù đi xa thì lấn đàng đất nhiều”.
Vậy, khi từ “bù” cùng chen ngang để trở thành “bù lăn bù lóc” thì “bù” có nghĩa là gì? Thật ngạc nhiên một cách thú vị, “bù” trong ngữ cảnh này chính là cù/ cù lăn cù lóc. Tương tự, khi nói “cầu bơ cầu bất/ cầu bất cầu bơ” cũng chính là cù bơ cù bất/ cù bất cù bơ. Chẳng hạn, nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…”.
Như nhân vật trong truyện của nhà văn Vũ Trọng Phụng tự kể: “Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Khi còn ở cái tuổi mà những đứa trẻ khác được bố mẹ chiều chuộng, nâng niu, ẵm bế, riêng tôi là một đứa bé một mình phải chịu nhiều nỗi gian nan” – có thể là hoàn cảnh lang thang vất vưởng, không chốn nương thân, bị bỏ bê, không ai để ý tới…
Tất nhiên, “cù” còn có nhiều nghĩa khác.
“Oánh ông Tơ cái trót
Ổng nhảy thót ngọn bần
Biểu ông xe mối chỉ, ổng cù lần không se”.
Ở đây, “cù/ cù lần” không có nghĩa là ngù ngờ hay chậm chạp như giải thích trong “Từ điển tiếng Việt thông dụng” (Vietlex): “Người đâu mà cù lần thế không biết”. Thực tế, “cù lần” trong ngữ cảnh này chính là cách nói tắt của “cù lần cù cứa” – chỉ hành động chần chừ, lần khân, dây dưa, lần lữa. Tùy ngữ cảnh cũng có thể hiểu như cù lơ cù trợt, cù nhầy/ cù nhằng/ cù nhây/ cù nhựa…
Ngoài ra, còn có từ khác nữa, hiện tại chỉ có thể tìm thấy trong “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895): “Cù xây: Hay làm lầy; bộ dai hoi. Nợ đòi mặt nợ, nó cù xây”. Trong trường hợp này, với tính cách cù nhằng, với ánh mắt trơ ra đó, người miền Nam xưa gọi là “cù chì cù mài”.