Ngày thường, đền Ngọc Sơn luôn thu hút khá nhiều du khách bởi điều đó được coi là “hòn ngọc của hồ Gươm”. Vào dịp Tết, sự đông đúc càng tăng lên, khi mà mọi người không chỉ đến tham quan mà còn đến để cầu may mắn, đặc biệt là những gia đình có con cháu chuẩn bị thi cử. Có nhiều người thậm chí còn lễ từ bên ngoài lễ vào đền, với việc thắp hương và vây quanh bia đá ở chân Tháp Bút. Tuy nhiên, ít ai biết được lịch sử của tấm bia này.
Cách đây không lâu, trong nội thành Hà Nội, chính tại đền Ngọc Sơn, đến chân Tháp Bút, vẫn còn một tấm bia với 5 chữ được khắc trên đó: “Thái Sơn thạch cảm đương”. Suốt hơn 10 năm qua, từ khi các ngôi nhà mới theo kiểu kiến trúc châu Âu xuất hiện khắp nơi, ta lại thấy một số nhà cũng đặt bia Thái Sơn thạch cảm đương ở cửa ra vào. Điều này có thể coi là một trào lưu. Nhưng ý nghĩa của 5 chữ này là gì và tại sao lại đặt ở các cửa ra vào?
Theo một quyển sách về Hà Nội, phần dịch các dòng chữ Hán tại đền Ngọc Sơn, có dịch là: “Dám sánh ngang núi Thái”, tức là người dịch chia câu đó thành hai phần: đá Thái Sơn (Thái Sơn thạch) và dám sánh ngang (cảm đương).
Tuy nhiên, trong cuốn sách “Nghiên cứu tôn giáo Thái Sơn” của Lưu Tuệ, được xuất bản năm 1988, có một mục riêng về “Thạch cảm đương” với lời giải thích khá phong phú, nhưng chúng ta sẽ lược bỏ phần đó. Trước hết, hãy tìm hiểu về Thái Sơn.
Ở Việt Nam, chúng ta đã quen thuộc với câu ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Núi Thái Sơn được xem như biểu tượng của sự cao ngất. Tuy nhiên, thực tế, núi này chỉ là một trong những dãy núi ở phía đông-bắc Trung Quốc, đạt đỉnh cao nhất là 1.545 mét. Trong số 5 dãy núi cao nhất Trung Quốc, Thái Sơn đứng thứ ba. Đầu bảng là Hoa Sơn (Tây Nhạc) với độ cao 2.100 mét, tiếp theo là Hằng Sơn (Bắc Nhạc) với độ cao 2.017 mét, rồi Sùng Sơn (Trung Nhạc) với độ cao 1.490 mét, Hành Sơn (Nam Nhạc) với độ cao 1.290 mét.
Tuy nhiên, núi Thái Sơn được coi trọng hơn cả vì được cho là núi thần thiêng nhất, đã từng được nhiều vua Trung Quốc lên tận đỉnh núi để tiến hành các nghi lễ, gọi là phong thiện. Tần Thủy Hoàng đã từ Hàm Dương (nay là Tây An) vượt qua hàng trăm nghìn cây số và leo lên đỉnh núi này để tế lễ. Các vị vua của những triều đại Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh và cả các hoàng đế Trung Hoa khác đều thường xuyên đến đây để cúng tế, như Hán Vũ Đế đã đến đây tám lần, Thanh Càn Long cũng đã đến đây mười lần… Vì vậy, núi Thái Sơn cũng là biểu tượng của sự thiêng liêng.
Đó là về Thái Sơn. Còn “Thạch cảm đương” thì có nguồn gốc khác. Xưa kia, ở Trung Quốc, con người thường coi những sự bất hạnh, những việc xảy ra ngoài ý muốn là do ma quỷ gây ra. Vì thế, người ta cầu xin một sức mạnh siêu nhiên để khống chế ma quỷ, giúp tránh tai họa. Từ đó, sự sùng bái thần linh đã xuất hiện. “Thạch cảm đương” chính là thần được vinh danh để đáp ứng sự mong muốn trừ yêu tà, cầu mong may mắn cho con người.
Trong cuốn sách “Nam thôn xuyết canh lục” của Đào Tông Ngại, đời Đường (thế kỷ thứ IX), được viết rằng: “Ngày nay, người ta thường đặt một tấm bia đá tại cửa chính, đối diện với cầu đường, ngõ phố, có khắc chữ Thạch cảm đương để trừ bệnh tật.” Cuốn sách “Vương Tượng chi” của Ngũ Sùng Diệu, đời Thanh (thế kỷ XVIII), cũng viết: “Khánh Lịch Trung và Trương Vĩ Tế đã làm huyện lại ở Bồ Điền, nhặt được một tấm bia đá, khắc dòng chữ ‘Thạch cảm đương, trấn bách quỷ, áp tai ương, quan lại phúc, bách tính khang, phong giáo thịnh’, tức là ‘Đá dám gánh chức trách trấn áp trăm quỷ và tai ương, khiến quan lại được phúc, dân chúng được an khang, giáo hóa phong tục phát triển’.”
Lưu Tuệ cho biết trên khắp Trung Quốc, trừ Tây Tạng và Tân Cương, ở bất kỳ địa điểm nào cũng có tục dựng Tấm bia Thạch cảm đương, tác động xa cả tới Nhật Bản và Triều Tiên. Tuy nhiên, có thể Lưu Tuệ không biết rằng ở Việt Nam, tại Hà Nội, đền Ngọc Sơn và nhiều ngôi nhà trên đường Xuân Diệu, Nghi Tàm cũng có đặt bia Thạch cảm đương!
Dù có những tranh cãi và luận bàn ở Trung Quốc, bia Thái Sơn thạch cảm đương ở đền Ngọc Sơn chỉ đơn giản là một biểu tượng trấn trạch.
Nguyễn Vinh Phúc