Văn học Việt Nam có một kho tàng phong phú và đa dạng, từ thơ ca, văn xuôi cho đến kịch nghệ. Trong đó, các loại thể thơ được sử dụng phổ biến bao gồm: Thể thơ lục bát, thể thơ song thất lục bát, thể thơ bốn chữ, thể thơ năm chữ, thể thơ sáu chữ, thể thơ bảy chữ, thể thơ tám chữ và thể thơ tự do. Mỗi loại thơ này đều có đặc điểm và quy luật riêng về cách sử dụng và gieo vần. Hãy cùng tìm hiểu về chúng!
Mục lục
Thể thơ lục bát
Trong văn học Việt Nam, thể thơ lục bát được coi là một trong những loại thể thơ phổ biến nhất. Đây cũng là thể thơ có niên đại lâu nhất của dân tộc. Luật sử dụng thể thơ lục bát được xác định dựa trên sự xen kẽ giữa thanh bằng (B) và trắc (T) trong các câu thơ:
- Câu 1, 3 và 5: Tự do về thanh
- Câu 2, 4 và 6: Câu lục tuân theo luật B – T – B, câu bát tuân theo luật B – T – B – B
Để nhận biết thể thơ lục bát, bạn chỉ cần xem số lượng chữ trong từng câu thơ và quy luật gieo vần. Các câu lục và câu bát sẽ xen kẽ nhau tạo thành một đoạn thơ hoặc bài thơ hoàn chỉnh.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ lục bát:
- “Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau…”
- “Cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày…”
- “Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng…”
Thể thơ song thất lục bát
Thể thơ song thất lục bát là một thể thơ độc đáo được sáng tạo bởi dân tộc ta. Quy luật sử dụng thể thơ này có một số khác biệt so với thể thơ lục bát:
- Câu 7 chữ ở trên: Chữ thứ 3, 5 và 7 tuân theo luật T – B – T
- Câu 7 chữ ở dưới: Chữ thứ 3, 5 và 7 tuân theo luật B – T – B
Để nhận biết thể thơ song thất lục bát, ta cần xem xét số lượng chữ trong từng câu thơ của mỗi đoạn thơ. Cấu trúc mỗi đoạn thơ sẽ bao gồm hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Thể thơ này không giới hạn số lượng câu trong một bài thơ.
Cách gieo vần của thể thơ song thất lục bát như sau: Tiếng cuối của câu 7 chữ ở trên sẽ hiệp vần với tiếng thứ 5 của câu 7 chữ ở dưới. Tiếng cuối của câu 7 chữ ở dưới tiếp tục hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câu lục hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tương tự, tiếp tục gieo vần cho đến hết bài thơ.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ song thất lục bát:
- “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu…”
- “Có hoa nào qua mùa không héo? Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?…”
- “Em nhớ mãi chiều thu lá đổ, Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn…”
Thể thơ bốn chữ
Trong các thể thơ của nước ta, thể thơ bốn chữ có thể được xem là một trong những thể thơ đơn giản nhất. Quy luật sử dụng thể thơ này cũng tuân theo luật bằng trắc như các thể thơ khác: Chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu thơ có sự luân phiên giữa T – B hoặc B – T.
Để nhận biết, ta xem xét số lượng chữ trong một câu thơ và quy luật bằng trắc. Thể thơ bốn chữ mỗi câu chỉ có 4 chữ. Thể thơ này không giới hạn số lượng câu trong một bài.
Thể thơ bốn chữ có cách gieo vần rất linh hoạt. Tùy theo ý đồ và mục đích của người viết, ta có thể gieo vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, hay vần lưng… Điều này tạo nên điểm nhấn về nhịp điệu trong từng câu thơ.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ bốn chữ:
- “Mùa xuân đi rồi, Nhiều hoa vắng mặt…”
- “Em bước vào đây, Gió hôm nay lạnh…”
- “Chú bé loắt choắt, Cái xắc xinh xinh…”
Thể thơ năm chữ
Tương tự như thể thơ bốn chữ, thể thơ năm chữ tuân theo luật bằng trắc: Chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong mỗi câu thơ đều có sự luân phiên giữa T – B hoặc B – T.
Để nhận biết thể thơ năm chữ, ta dựa vào số lượng chữ trong từng câu thơ và luật bằng trắc. Thể thơ này không giới hạn số lượng câu trong một bài, dung lượng của bài thơ tùy thuộc vào ý đồ của người viết.
Về cách gieo vần, thể thơ này giống với thể thơ bốn chữ. Bạn có thể gieo vần linh hoạt như: Vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, vần lưng… Ngoài ra, bạn cũng có thể kết hợp nhiều cách gieo vần khác nhau ngay trong một bài thơ.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ năm chữ:
- “Trên đường hành quân xa, Dừng chân bên xóm nhỏ…”
- “Em nhớ mãi chiều thu lá đổ, Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn.”
- “Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”
Thể thơ sáu chữ
Trong các loại thể thơ, thể thơ sáu chữ được nhiều người yêu thích vì có âm điệu nhẹ nhàng, dễ gieo vần và rất dễ thuộc. Quy luật nhận biết thể thơ này giống với thể thơ bốn chữ và năm chữ, tuân theo luật bằng trắc.
Để nhận biết, ta xem số lượng chữ trong câu, số lượng câu trong một bài và cách sắp xếp các thanh bằng – trắc theo quy luật như trên.
Về cách gieo vần, thể thơ sáu chữ sử dụng các loại vần như: Vần ôm, vần tiếp và vần chéo.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ sáu chữ:
- “Quê hương là chùm khế ngọt, Cho con trèo hái mỗi ngày…”
- “Em bước vào đây, Gió hôm nay lạnh…”
- “Trên đường hành quân xa, Dừng chân bên xóm nhỏ…”
Thể thơ bảy chữ
Thể thơ bảy chữ cũng rất phổ biến trong văn học. Đây là một thể thơ khá đơn giản. Quy luật sử dụng thể thơ này tuân theo quy luật bằng trắc linh hoạt, tương tự như thể thơ bốn chữ và năm chữ.
Bài viết liên quan:
Để nhận biết, ta dựa vào số lượng chữ trong từng câu thơ. Các câu đều có bảy chữ và cả bài thơ không bị giới hạn về số lượng câu cụ thể.
Cách gieo vần của thể thơ bảy chữ cũng rất linh hoạt. Bạn có thể kết hợp nhiều cách hiệp vần khác nhau như vần chân, vần ôm, vần lưng…
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ bảy chữ:
- “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song…”
- “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Tôi sẽ trách – cố nhiên, nhưng rất nhẹ…”
- “Ngàn năm bên lối nhỏ, Trút niềm đau muộn phiền…”
Thể thơ tám chữ
Trong thể thơ tám chữ, mỗi câu thơ chỉ bao gồm 8 chữ. Tương tự với các thể thơ nêu trên, thể thơ tám chữ không giới hạn về số lượng câu trong một bài. Quy luật sử dụng thể thơ này là tuân theo luật bằng – trắc: Tiếng cuối và tiếng thứ 3 có vần trắc thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 là vần bằng. Ngược lại, nếu tiếng cuối và tiếng thứ 3 có vần bằng thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 phải có vần trắc.
Để nhận biết thể thơ tám chữ, ta cần xem xét số lượng chữ trong câu, số lượng câu trong bài và cách sắp xếp các thanh bằng – trắc theo quy luật như trên.
Về cách gieo vần, thể thơ tám chữ sử dụng các loại vần như: Vần ôm, vần tiếp và vần chéo.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ tám chữ:
- “Ta rắp nâng lời chào ngày mới mẻ, Vì Đông, Thu, hay Hạ cũng như Xuân…”
- “Anh đội viên nhìn Bác, Càng nhìn lại càng thương…”
- “Quê hương là chùm khế ngọt, Cho con trèo hái mỗi ngày…”
Thể thơ tự do
Trong các loại thể thơ, thể thơ tự do được coi là thể thơ hiện đại và được nhiều bạn đọc yêu thích. Thể thơ này cho phép người viết tự do sáng tạo, bày tỏ quan điểm, cảm xúc cá nhân mà không bị gò bó bởi luật bằng – trắc, hiệp vần như nhiều thể thơ khác. Trong thể thơ tự do không giới hạn cụ thể về số chữ trong một câu và số lượng câu trong cả bài thơ.
Để nhận biết thể thơ tự do, bạn có thể xem dung lượng chữ và dung lượng câu. Một bài thơ tự do không có tính quy luật cụ thể, số lượng chữ trong các câu có thể không giống nhau.
Về cách hiệp vần, tùy theo mục đích và cảm xúc của người viết mà trong bài thơ đó có thể kết hợp nhiều cách gieo vần khác nhau (vần lưng, vần chân, vần chéo…) hoặc không có vần.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ tự do:
- “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng ánh trăng tan…”
- “Tiếng địch thổi đâu đây, Cớ sao mà réo rắt?…”
- “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng…”
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật là một thể thơ ra đời vào thế kỉ XII trong thời nhà Đường ở Trung Quốc, sau đó đã được du nhập vào Việt Nam. Mỗi bài thơ sẽ có 4 câu, mỗi câu gồm 7 chữ. Quy luật sử dụng thể thơ này yêu cầu tuân theo cấu trúc: Khai, thừa, chuyển, hợp. Tiếng thứ 2 của câu thứ nhất sẽ quy định luật cho cả bài thơ. Ví dụ: Nếu tiếng thứ 2 ở câu thứ nhất có thanh bằng thì luật của cả bài sẽ là luật B.
Để nhận biết thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, ta dựa vào số lượng câu chữ trong bài thơ và quy luật bằng trắc, gieo vần của cả bài.
Cách gieo vần trong thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật rất quy định. Các tiếng ở cuối các câu 1, 2, 4 và 6 sẽ hiệp vần bằng với nhau.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:
- “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…”
- “Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu, Đôi mình cách trở bởi vì đâu…”
Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ mà mỗi bài có 8 câu, mỗi câu chỉ có 7 chữ. Thể thơ này xuất hiện rất sớm tại Trung Quốc, đến thời nhà Đường thì mới được đặt tên gọi và quy định cụ thể. Đây cũng là thể thơ được sử dụng để tuyển chọn nhân tài dưới các triều đại phong kiến.
Về quy luật sử dụng, thể thơ này tuân theo cấu trúc Đề, Thực, Luận, Kết tương tự với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Trong một bài thơ sẽ có sự luân phiên giữa các thanh bằng – trắc, hoặc bằng – bằng, trắc – trắc ở tiếng thứ 2 và tiếng thứ 4.
Để nhận biết thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ta xem số lượng chữ trong câu, số lượng câu trong một bài và cách sắp xếp các thanh bằng – trắc theo quy luật như trên.
Về cách gieo vần, thất ngôn bát cú Đường luật được quy định chặt chẽ về niêm và vần. Các tiếng ở cuối các câu 1, 2, 4 và 6 sẽ hiệp vần bằng với nhau.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
- “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa…”
- “Em bước vào đây, Gió hôm nay lạnh…”
- “Quê hương là chùm khế ngọt, Cho con trèo hái mỗi ngày…”
Hy vọng bài viết này đã giúp bạn hiểu thêm về đặc điểm, quy luật sử dụng, cách nhận biết và gieo vần của các loại thể thơ phổ biến nhất trong văn học Việt Nam. Tùy theo mục đích và dụng ý dụng diễn đạt, bạn có thể lựa chọn các loại thể thơ phù hợp.