Ngày xưa, khi tôi còn nhỏ, ba tôi thường nghe một bài thơ được nhạc sĩ phổ biến, câu đầu tiên như thế này: “Áo anh rách vai. Quần tôi có vài mảnh vá. Miệng cười buốt giá. Chân không giày”. Tôi đã nghe nó và ghi sâu trong lòng những hình ảnh trong bài thơ đó. Tôi ngưỡng mộ sự dũng cảm của những người lính trong buổi đầu kháng pháp, dù cuộc sống của họ còn nhiều sự thiếu thốn.
Một buổi trưa, tôi nằm trên chiếc võng sau nhà và ngâm nga lại bài thơ. Cơn gió lay động tôi vào mộng mị hay do khao khát muốn gặp gỡ những chiến sĩ ấy, rồi tôi mở mắt ra và mọi thứ xung quanh đã hoàn toàn khác lạ.
Dưới chân tôi là mảnh đất đá khô cằn. Phía trước tôi, những cây cối xanh rờn kéo dài. Cảm giác lạnh tê cóng từ sương đêm khiến tôi vội vàng xoa nắn hai bàn tay nhằm sưởi ấm. Tôi nhìn thấy một đoàn quân với hơn năm mươi người, đang say giấc sau một ngày dài đi quân đội. Nhìn thấy hình ảnh ấy, tôi không thể nào kìm nén được xúc động. Những người lính đang cất chiếc áo mỏng của mình để làm gối hoặc gối đầu để sưởi ấm. Họ không có tấm chăn, chỉ lấy những mảnh vải cũ đắp lên người và dùng lá cây làm chiếu. Hai người lính đứng canh giữ giấc ngủ của đồng đội với ánh trăng lấp lánh trên đầu khẩu súng. Không biết tại sao, lúc đó tôi không lo lắng hay sợ hãi mà thậm chí càng hồi hộp hơn khi tiến gần hai người lính. Tiếng bước chân của tôi trong đêm vắng làm họ quay lại. Tôi nghĩ rằng các anh sẽ ngạc nhiên và hỏi tôi là ai, nhưng không, các anh chỉ mỉm cười nhìn tôi như đã từng quen biết tôi. Tôi cũng ngỡ ngàng khi nhìn thấy gương mặt của các anh, giống như cha, chú tôi vậy. Gương mặt của các anh đã bị nắng cháy, đôi hàm rắn rỏi và đôi mắt sâu thẳm do những đêm thức trắng trong quân đội. Họ mặc áo lính màu xanh lá cây, khoác ngoài là chiếc áo khoác bọc lấy những gì không mấy dễ chịu. Tôi nhớ lúc ấy câu thơ: “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”. Nhìn thấy những mảnh vải vụn của các anh, tôi quên mất việc giới thiệu bản thân và bắt đầu trò chuyện với họ.