Trên những cung đường xa xôi, khi dừng chân bên những xóm nhỏ, tiếng gà đã buổi trưa nhảy ổn thỏa và vo vẽ: “Cục… cục tác cục ta”. Ánh nắng trưa vang vọng qua tai, những bàn chân mỏi mệt và gọi về kí ức tuổi thơ.
Tiếng gà trưa, ở rừng cỏ non, những chiếc ổ rơm hồng đầy trứng. Những con gà mái ấy, mơ màng với lông trắng như những bông hoa đốm. Con gà mái vàng, lông óng như màu ánh nắng.
Tiếng gà trưa, cùng với tiếng bà mắng: “Mày nhìn con gà đẻ đi, rồi sau này sẽ lang mặt đấy! Về nhà lấy gương soi đi, đừng lo âu vì những điều ngây thơ.”
Tiếng gà trưa, bàn tay bà chỉnh chu trứng từng quả, chăm chú cho con gà mái ấp.
Hàng năm, khi gió mùa đông về, bà lo xa đàn gà mong trời không có sương muối. Vì bà muốn cuối năm được bán gà, cháu có quần áo mới. Ôi, những chiếc quần áo rộng dài và cái áo cánh chúc bâu, khi đi qua, nghe thì nhe nhàng nhưng sột soạt.
Tiếng gà trưa, mang đến bao nhiêu hạnh phúc. Khi cháu đi ngủ, giấc mơ mãi hồng với những chiếc trứng đầy ắp.
Cháu chiến đấu hôm nay, vì lòng yêu Tổ quốc, vì những xóm làng thân thuộc. Cũng vì bà, cũng vì tiếng gà cục tác và những ổ trứng hồng tuổi thơ.
2-7-1965
Tác giả: Xuân Quỳnh.
Bài thơ “Tiếng Gà Trưa” được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và lần đầu xuất hiện trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”.
(Nguồn: Xuân Quỳnh, Hoa dọc chiến hào, NXB Văn học, 1968)
- Chú giải:
- “Lang mặt”: Da mặt có những đám trắng loang lổ do bệnh lang ben (bệnh ngoài da, do một thứ nấm gây ra). Trong dân gian xưa lưu truyền quan niệm cho rằng nhìn gà đẻ sẽ bị lang mặt.
- “Sương muối”: Sương đông thành những hạt băng trắng xoá phủ trên mặt đất và cây cỏ, trông như muối, chỉ xuất hiện khi thời tiết rất lạnh, có hại đối với cây cối và loài vật.
- “Chéo go”: Vải dày, trên mặt vải có những đường dệt chéo song song với nhau theo bề ngang khổ vải.
- “Chúc bâu”: Vải trắng dày dệt bằng sợi bông thông thường.