“Thuyền quyên” là một thuật ngữ trong câu chuyện Kiều, được sử dụng để miêu tả những phụ nữ xinh đẹp trong xã hội xưa. “Anh” trong “anh hùng” mang ý nghĩa tốt đẹp, tài hoa hơn người, xuất chúng. “Anh” được hình thành từ từ “cỏ” và “ương”. Hình tượng gốc của “anh” là loài hoa đẹp nhất.
Trong khi đó, “hùng” trong “anh hùng” chỉ những người dũng mãnh tài giỏi, xuất chúng, không liên quan đến con gấu như nghĩa đen. “Thuyền quyên” trong câu văn có nghĩa là xinh đẹp. Trong thơ văn cổ, nó được dùng để miêu tả phụ nữ đẹp hoặc thậm chí mặt trăng.
“Thuyền quyên” là một danh từ được sử dụng như tính từ trong tiếng Việt. Đây là hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ. Khi một danh từ trở nên phổ biến, trong ngữ cảnh nó có thể thay thế cho động từ, tính từ hoặc tính từ dùng như danh từ và động từ.
“Thuyền quyên” ban đầu là tên của một học trò nữ của nhà thơ Khuất Nguyên (Trung Quốc). Khi Khuất Nguyên lên án hành động phản bội của bà thứ phi, bà đã sử dụng tiền và vàng để vu khống là Khuất Nguyên điên cuồng. Kể từ đó, không ai nghe lời của Khuất Nguyên nữa.
Thuyền Quyên là người duy nhất tận tụy theo sự hướng dẫn của thầy và cũng đã yêu thầy. Cô đã chịu đựng sức ép từ đám đông để trọn vẹn tình yêu. Do đó, khi có cô gái nào gặp trắc trở trong tình yêu, ta hay nói đó là “phận gái Thuyền Quyên”, để ám chỉ tình cảnh tương tự như Thuyền Quyên ngày xưa!
Câu ca dao dân gian thường nói:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Ví như Lữ Bố, Điêu Thuyền gặp nhau.
nhằm chỉ những mối tình khắc nghiệt, và cũng để nhấn mạnh thân phận khốn khó như Thuyền Quyên.