Địa Tạng Vương Bồ Tát, với chùm lông trắng xoáy nằm trên trán, giữa hai mắt, tay trái cầm Như Ý Châu, tay phải cầm Tích Trượng – sáu vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi. Ngài có nhiều sự tích, nhưng có hai lần thân thế lưu truyền nhiều nhất.
Bước vào thế giới của Đức Địa Tạng, chúng ta khám phá ra rằng Ngài sinh ra trong một gia đình dòng dõi Bà-La-Môn, tên là Kolita Moggallàna hay Mục Kiền Liên. Một người đức tâm như Mục Kiền Liên lại có một mẹ mang nhiều sát nghiệp, bà Thanh Đề. Bà Thanh Đề qua đời và bị đày xuống Vô Gián địa ngục, phải chịu sự trừng phạt đau đớn. Nhưng nhờ thương Mục Kiền Liên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói với Ngài vào ngày rằm tháng Bảy, cùng chư tăng tổ chức một buổi lễ để cầu nguyện và hộ niệm cho cửu huyền thất tổ và mẹ Ngài. Mục Kiền Liên làm theo và cuối cùng, bà Thanh Đề cũng được giải thoát.
Sau đó, Ngài cùng người bạn từ thuở niên thiếu Upatissa, Xá Lợi Phất, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thu nhận làm đệ tử.
Đây cũng là cái gốc của ngày Vu Lan (Xá tội vong nhân) vào ngày 15/7 âm lịch hàng năm, là ngày những người con nhớ ơn công lao sinh dưỡng và tình yêu thương của mẹ.
Biết được có nhiều người cũng sa chân vào chốn lầm than, Địa Tạng Vương đã đến trước Đức Phật, nói rằng Ngài nguyện xuống địa ngục, cứu vớt chúng sinh. Bao giờ địa ngục hết chúng sinh lầm than mới xin thành Phật.
Theo ấn bản thứ hai, Ngài là hoàng tử xứ Tân La, tên là Kim Kyo-Gak (Kim Kiều Giác). Ngài là người giản dị, đạm mạc, yêu thích đọc sách Thánh Hiền. Ngài xuất gia khi 24 tuổi và dẫn theo con chó trắng Thiện Thính đi tìm chốn thanh tịnh để tĩnh tu. Cuối cùng, Ngài chọn núi Cửu Hoa (nay thuộc An Huy Trung Quốc) và thiền định trên đó trong 75 năm.
Một hôm trong lúc thiền định, Ngài bị một con rắn nhỏ cắn vào chân. Tuy nhiên, Ngài vẫn bất động và ngay lập tức, một người phụ nữ tuyệt đẹp từ vách núi bay ra, cúi lạy và đưa thuốc để tạ lỗi con rắn đó. Vì sự lỗi lầm này, nguồn suối Long Nữ nổi danh đã được hình thành trên núi Cửu Hoa.
Câu chuyện về Địa Tạng còn kể về cha con Văn Các lão nhân là Mẫn Công và nhà sư Đạo Minh. Mẫn Công là người giàu có và tích đức làm việc thiện. Con trai Mẫn Công, Đạo Minh, ngưỡng mộ Đức Địa Tạng và muốn xuất gia. Để thuận tiện cho việc nghe giảng pháp, Mẫn Công bái Đạo Minh làm thầy.
Khi Ngài đến tuổi 99 và vào ngày 30 tháng 7, Ngài triệu tập đệ tử để từ giã. Có truyền thống kể rằng lúc đó, từ khắp núi rừng phát ra tiếng gào khóc thảm thiết của muông thú, cỏ cây héo rũ, mây che kín khắp nơi và mùi hương thơm ngát tràn ngập.
Nhục thân của Đức Địa Tạng được đặt vào một động đá và ba năm sau đó, đồng đội phát hiện nhục thân vẫn còn nguyên vẹn như khi Ngài còn sống. Vì vậy, chúng đã đem nhục thân đến bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh để thờ cúng.
Địa Tạng Vương là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh dưới địa ngục và bảo vệ trẻ em. Theo một niềm tin, các đứa trẻ yểu mạng quanh sông không chịu qua cầu Nại Hà đi đầu thai vì lòng thương nhớ cha mẹ và người thân. Lúc này, Đức Địa Tạng xuất hiện, an ủi và giúp đỡ chúng, giúp chúng tạo công đức qua sông.
Tại Trung Quốc, ngọn núi Cửu Hoa là trú xứ của Đức Địa Tạng Vương – một trong Tứ Đại Danh Sơn.