Nhiều người nói hoa ô môi chỉ có ở vùng Tây Nam bộ. Các bạn cùng trang lứa ở đồng bằng sông Cửu Long thường kể bao hoài niệm về ô môi, thời tuổi thơ chân quê nghịch ngợm.
Không ai biết cây ô môi đến Việt Nam từ lúc nào và vì sao chỉ chọn vùng đất giàu phù sa của Tây Nam bộ để sinh sống. Chưa ai kể về nguồn gốc và tên gọi độc đáo của ô môi. Chỉ biết cây ra hoa suốt cả mùa xuân, đến đầu hè mới cho ra trái.
Lũ trẻ quê thường dùng hoa ô môi để làm vương miện và bày trò bán hàng. Còn trái ô môi chín lại là món quà hào phóng. Quanh năm, cây ô môi bình dị như người nông dân lam lũ, chẳng ai để ý. Nhưng đến cuối đông, lá rụng, hoa ô môi lại rực hồng, như cánh dù no gió, lộng lẫy đến kinh ngạc, báo hiệu mùa xuân đến.
Khi đầu hè đến, cành cây sinh lá và trái mới bắt đầu chín. Nếu hoa là báo hiệu mùa xuân, thì trái là báo hiệu mùa hè. Trái ô môi chín có màu đen tuyền, từ vỏ cho tới cơm, vị ngọt nồng, thơm phức như hương đất Tây Nam.
Trái ô môi không chỉ dùng để ăn mà còn để nhuận trường. Nó cũng được ngâm rượu làm thuốc, giúp ăn ngon miệng, tiêu hóa tốt, chữa đau lưng, đau xương, nhức mỏi. Hạt ô môi hình trái tim, ngâm nước nóng, lớp vỏ cứng sẽ bong mềm, lấy nhân bên trong, nấu chè giải khát, thơm ngon như sâm bổ lượng. Lá ô môi tươi giã nát lại có thể chữa hắc lào, lở ngứa. Nước hoa lá ô môi cũng có tác dụng giống như trái. Với nhiều công dụng làm thuốc khác nhau, cây ô môi được ví như “Canhkina” của Việt Nam.
Trái ô môi dài khoảng nửa mét, khi ăn phải chặt ra từng khúc. Lấy dao róc bỏ phần vỏ hai bên, dùng ngón tay cầm hai sống còn lại, đẩy tới đẩy lui vài lần để lấy phần cơm của trái. Cơm trái ô môi xếp thành từng múi tròn mỏng đều nhau và phủ lớp mật màu đen, có vị ngọt, hơi nồng cay, và mùi thơm đặc trưng. Mỗi múi chứa một hạt màu vàng ở một bên mặt.
Cây ô môi gắn liền với chuyện tình son sắt và chung thủy của người Khmer. Nàng xinh đẹp, sắc sảo, là con nhà giàu. Chàng tuấn tú thông minh, chỉ tội nghèo khó nên tình yêu trắc trở. Hai người không thể đến được với nhau. Chàng buồn rời xứ đi phiêu bạt.
Thấy chàng khỏe mạnh, giỏi giang, gia đình nhiều người muốn cưới làm chồng cho con gái (do người Khmer theo chế độ mẫu hệ, con gái cưới chồng, con trai về làm rể) nhưng chàng từ chối vì trái tim chàng đã thuộc về nàng, dù xa cách vẫn không thể quên. Ở quê, nàng đợi chờ mãi mà chàng không trở về. Mệt mỏi và chờ đợi, nàng gục chết bên vệ đường. Ở nơi nàng chết, bỗng mọc lên một loài cây lạ, thân hơi sù sì, ngăm đen như da người Khmer nhưng trái thì ngọt nồng như tấm lòng son sắt. Đặc biệt, hoa nở hồng thắm như tình yêu tinh khôi, chung thủy.
Sau ba năm, cây ô môi mới ra hoa và trái. Một ngày nọ, chàng lang thang đi làm thuê và ngồi nghỉ dưới gốc cây lạ. Cây rùng mình, rụng lá, những búp non nhỏ bé màu hồng nhạt dần lớn lên, nở thành hoa hồng thắm, như tình cảm năm xưa dồn nén trong lòng.
Rồi hoa kết trái, đung đưa mời gọi. Chàng bẻ trái ăn thử và nhận ra vị ngọt nồng như môi hôn của người yêu. Chàng xót xa, đau đớn, ôm cây thương nhớ và gọi tên nàng khẳn khê. Chàng dừng chân, sống bên cây thân thiết, chăm sóc hàng ngày. Ai hỏi cây tên gì, chàng trả lời là “Ô muôi”.
Theo tiếng Khmer, “ô” có nghĩa là cây, “muôi” có nghĩa là số 1, nhưng sau đọc trệch thành “ômôi”. Tức là cây số 1, đứng đầu và quan trọng nhất. Với chàng, nàng luôn là số 1 và không thể thay thế. Tình cảm của họ cũng như vậy.
Sau này, chàng dời chỗ nhiều lần, đem theo hạt giống ô môi và trồng khắp nơi. Để hai người mãi bên nhau, bền chặt…
Tây Nam bộ mùa này, ô môi chín trĩu cành. Hỏi mua, mấy chủ nhà cười hí hửng: “Bán buôn gì, cứ vào nhà lấy cây mà thọc, ăn bao nhiêu hái bấy nhiêu”.
Thời bao cấp, trái ô môi là món quà quê phổ biến. Ngày nay, lâu lâu, thấy bán ngoài chợ, giá rẻ như cho, chỉ vài ngàn đồng. Với dân quê đã lên phố, trái ô môi chỉ còn là hoài niệm của người lớn, vị ngọt hương vị quê nhà.
Cây và hoa ô môi đẹp, có nhiều công dụng và ý nghĩa mà suốt thời gian qua đã bị lãng quên. Điều này thật đáng tiếc và cảm thấy buồn. Có những nơi người ta lại chạy theo các loại cây ngoại lai thô kệch, mất công và tốn kém.
Mùa xuân, miền Bắc có hoa đào, miền Trung và Đông Nam bộ có hoa mai, còn Tây Nam bộ thì chắc chắn phải là hoa ô môi, còn được gọi là hoa báo xuân độc đáo. Hoa đào và mai chỉ được dùng để làm cảnh, còn ô môi lại có thêm nhiều vị thuốc chữa bệnh.
Nghe đâu, huyện Thanh Bình và một số địa phương ở tỉnh Đồng Tháp đang có kế hoạch phục hồi, nhân giống và trồng thêm cây ô môi; như một nét đặc trưng của văn hóa con người xứ này.
Tên khoa học của cây ô môi là Cassia grandis, thuộc họ vang. Thân cây cao 10 – 20m, phân cành to, mọc ngang thẳng, vỏ nhẵn, cành non có lông màu nâu nhạt, cành già màu nâu đen. Lá kép lông chim với 8 – 20 đôi lá phụ, dạng thuôn tròn cả hai đầu, dài 7 – 12cm, rộng 4 – 8cm, phủ lông mịn, màu xanh bóng, gân rõ.
Cụm hoa nở rộ khi lá rụng, dạng chùm dài mang hoa lớn, xếp thưa. Hoa màu hồng tươi nở thành chùm ở những kẽ lá đã rụng. Quả hình trụ, dẹp, dài từ 40 – 60cm, hơi cong, đường kính 3-4cm, có 50-60 ô, mỗi ô chứa một hạt dẹp màu vàng cứng, quanh hạt có cơm màu nâu đen, vị ngọt, mùi hắc.
Cây ô môi có nguồn gốc từ Nam Mỹ và được trồng để tạo bóng mát và hoa đẹp ở nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, ô môi được trồng chủ yếu ở vùng Tây Nam bộ.
Thân cây ô môi khó chẻ, dễ làm củi. Xưa kia, nhà gái thường thử lòng chàng rể tương lai bằng cách chẻ củi ô môi. Đó không chỉ là việc sức mạnh mà còn đòi hỏi sự thông minh, biết áp dụng các nguyên lý vật lý mới có thể vượt qua thử thách đó, để giành được tấm vé xanh trong nhà người con gái.
Theo Nguyễn Văn Mỹ/ TTO