Mục lục
Sớ điệp công văn trong Phật giáo Việt Nam là những bản giấy tờ dùng để biểu bạch lên Tam bảo hoặc tâu trình lên Thánh, Thần, Linh, Cô hồn và trong pháp giới lục đạo. Các văn bản này có mục đích giúp trai tín chủ tóm tắt lời phát nguyện, lời sám hối tội khiên và ước nguyện, từ đó vun trồng công đức và tu hành. Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá về phương diện công văn của Sớ điệp công văn trong Phật giáo Việt Nam.
Nghi thức và ý nghĩa của Sớ điệp công văn
Tất cả các nghi thức và ý nghĩa các lễ trong Phật giáo đều xuất phát từ kim khẩu đức Phật hoặc chư Tổ được ghi lại trong kinh điển. Tuy nhiên, quý vị Cổ Ðức đã điều chỉnh để phù hợp với nghi lễ cổ truyền của từng dân tộc mà không mất đi mục đích tối thượng của Ðạo Phật là giải thoát và lợi sanh. Nghi lễ cổ truyền của dân tộc Việt Nam đã ảnh hưởng nghi lễ Trung Quốc, nhưng với tinh thần Quốc gia, Dân tộc, tiền nhân đã gạn lọc để giữ lại những tinh túy phù hợp với tâm lý, đạo lý làm người và cuộc sống hàng ngày của dân tộc để phát triển và loại bỏ những điều quá câu nệ, phức tạp, hình thức không cần thiết.
Các loại văn bản Sớ điệp công văn
Trong Phật giáo Việt Nam, có nhiều loại văn bản đang được sử dụng. Dưới đây là một số loại văn bản phổ biến:
1. SỚ
Sớ là tờ điều trần dâng lên bậc bề trên, tương đương với lời phát nguyện dâng lên Tam bảo.
2. BIỂU
Biểu bạch là một văn bản chi tiết về sự kiện cần trình bày lên Tam bảo hoặc chư vị Bồ Tát.
3. TRẠNG
Trạng là bài văn giải thích sự việc trình lên Thánh, Thần.
4. HỊCH
Hịch là lời kêu gọi của người trên hiểu dụ người dưới. Ví dụ: “Hịch Nguyễn Trãi”.
5. ÐIỆP
Ðiệp là bản văn giải thích để người sử dụng dễ dàng trong việc đi lại hoặc thi hành nhiệm vụ.
6. DẪN
Dẫn là một thể văn dùng để nói đến một sự việc khác.
7. PHAN
Phan là một khổ vải dài có ghi chữ trên đó, tuỳ theo mục đích của buổi lễ, chẳng hạn như Chẩn tế, bạt độ.
8. BẢNG
Bảng được sử dụng để yết thị chương trình hành lễ, tương đương với chương trình hiện nay.
9. NHO
Nho là một lá cờ có ghi tên của các vị Thần ngũ phương, được sử dụng để triệu thỉnh các Ngài trong một công việc nào đó.
10. BÀI VỊ
Bài vị là tên chung của một thông báo về chỗ ngồi của chư vị Thần, Linh.
11. THIẾP
Thiếp là một bản văn để làm tin.
Hình thức và nội dung của văn bản Sớ điệp công văn
Hình thức
- Màu sắc: Sớ, Biểu, Trạng, Dẫn được viết trên giấy màu vàng, còn các loại khác được viết trên giấy màu đỏ hoặc trắng.
- Kích thước: Tờ giấy bản dài khoảng 64 phân tây, rộng 40 phân tây. Gấp làm đôi theo chiều ngang, sau đó gấp lại thành 4 khổ bằng nhau.
- Cách trình bày: Chỉ viết một mặt, viết chữ chân, không viết chữ thảo. Hồng danh chư Phật, Bồ Tát, tên kinh, chú phải viết hoa lên hàng đầu hoặc giữa hàng. Phía trên đầu tờ giấy phải chừa một khoảng trống bằng một lóng tay giữa, phía dưới cùng phải chừa một khoảng nhỏ nhất cũng phải đủ đường cho một con kiến bò. Cuối cùng là ghi ngày, tháng, năm và vị dâng sớ ký tên và đóng dấu.
Nội dung
- Sớ, Biểu, Trạng, Dẫn căn cứ vào bài kệ trong phảm “Biểu Bạch” để nêu rõ rằng đang dâng lên vị nào: đồng trú trì Phật hay biệt trú trì Phật.
- Các văn thể phải hợp cơ duyên và cảnh huống nghi lễ, phù hợp với khế cơ và khế lý.
- Như vậy, để trước thuật và làm mẩu mực cho người sau, cần nắm vững kiến thức chuyên môn và tinh thần trách nhiệm để giải quyết tất cả các vấn đề từ trên bàn thờ đến tận nhà bếp. Phải cầu tiến và học hỏi từ các bậc tôn túc và các vị chuyên gia về nghi lễ để tổ chức đúng chỗ, đúng lễ.
Sớ điệp công văn trong Phật giáo Việt Nam đòi hỏi kiến thức chuyên môn và tinh thần trách nhiệm để ứng phó và giải quyết tất cả mọi vấn đề. Nó là một công việc khá năng nề và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển đạo pháp.