Những kỷ niệm xung quanh bài thơ nổi tiếng “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” đã được Nhà thơ Phạm Tiến Duật viết trong suốt cuộc đời ông. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá bài viết này.
Mục lục
Bài thơ đậm chất cuộc sống
Bài thơ “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” được sáng tác vào cuối năm 1969, tại một làng nhỏ bên bờ sông Sơn, tỉnh Quảng Bình. Làng nghèo Cổ Giang, nằm gần dãy núi Trường Sơn và cách cổng đường 20 không xa. Đã gần 30 năm trôi qua, tuổi đời và tuổi tác đã trải qua biết bao nhiêu biến cố.
Tình yêu trong chiến tranh
Bài hát “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” là một bản tình ca trong giai đoạn chiến tranh. Câu chuyện kể về một chàng trai và một cô gái yêu nhau giữa đường trường xa cách. Trong tác phẩm thơ, chúng ta còn thấy sự kết hợp giữa tình ca và quân ca. Đặc biệt, có tám dòng thơ mà không có bản nhạc. Dòng thứ hai từ trên xuống nói về:
“Một dãy núi mà hai màu mây,
Bên nắng bên mưa khí trời cũng khác,
Như anh với em như Nam với Bắc,
Như Đông với Tây một dải rừng liền”.
Và dòng thứ hai từ dưới lên:
“Đông sang Tây không phải đường thư,
Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo,
Đông Trường Sơn cô gái ba sẵn sàng xanh áo,
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”.
Như vậy, trong thơ không chỉ có hai người yêu nhau mà còn có hai “lực lượng”. Ba chữ như trên chỉ là một ví dụ. Âm nhạc hòa quyện với thể hát trữ tình đã tạo ra một bản thơ đẹp.
Những kỷ niệm đáng nhớ
Tác phẩm này đã hoàn thành vào cuối năm 1969, nhưng hai dòng đầu tiên đã xuất hiện gần hai năm trước đó. Người thơ đang sống ở Hà Nội, là một hoạ sĩ nổi tiếng. Khi đó, anh đã yêu một cô y tá ở Đông Trường Sơn. Trên chuyến đi sang phía Tây, anh ta và tôi ngồi chung một xe cabin và suốt chặng đường anh vẫn không ngừng nhắc đến người yêu. Tình yêu anh tràn ngập cả tôi và người lái xe. Một cơn mưa làm xua đi nỗi nhớ và giúp tôi viết hai dòng đầu tiên:
“Anh lên xe trời đổ cơn mưa,
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ”.
Sự gian nan trên hành trình
Bài thơ này được viết sau những chặng đường gian nan vượt qua rừng rậm. Nếu bạn chưa từng trải qua những cuộc sống trong rừng, bạn sẽ khó có thể cảm thông hết lòng với bài thơ này. Ví dụ như câu này: “Nước khe cạn, bướm bay lèn đá” không chỉ là một câu thơ tả đẹp mà còn là một quan sát đáng lo sợ của lính trinh sát. Nếu bạn nhìn thấy cảnh tượng đó vào lúc hoàng hôn, chắc chắn bạn sẽ đói vì không có nước để nấu cơm. Trong vòng mười dặm quanh quẩn đi, không thể tìm được nguồn nước. Hay như câu này: “Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”, một người Việt kiều và một nhà thơ Pháp đã dịch là “Muỗi bay, mọi người mặc áo măng tô vào”, điều đó thực sự buồn cười. Họ chẳng phải là lính nên không thể hiểu được.
Bây giờ, khi đọc lại và nghe lại, mặc dù tôi không phải là người trong cuộc, nhưng tôi vẫn cảm thấy xúc động. Trong nhiều năm qua, có rất nhiều bài thơ được gọi là “thơ tình” và nhiều ca khúc được gọi là “tình ca”, nhưng thường chỉ tán tỉnh và đôi khi thậm chí là thô lỗ. Có quá nhiều sự ích kỷ được truyền tải qua các câu chữ. Nhớ lại thời đó, tôi không tự khẳng định bản thân hay đồng đội của mình, nhưng đó là niềm tự hào và cảm động. Có vẻ như, nếu không thể yêu tất cả mọi người, thì cũng khó mà yêu một người. Sự ích kỷ trong tình yêu chứa đựng sức mạnh phản kháng.
Không chỉ có tôi, mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng đội của chúng ta cùng viết nên bài thơ này.
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam – Nhà thơ Phạm Tiến Duật