Ngày xưa, thời gian được biểu diễn bằng cách kết hợp tên của 10 thần Can và 12 chi Địa Chi. Mỗi Can Dương kết hợp với Chi Dương, Can Âm kết hợp với Chi Âm. Từ đó, ta có tổng cộng 60 tên khác nhau trong việc biểu diễn năm tháng ngày giờ. Mỗi yếu tố trong đời sống đều có một hành tương ứng, và hành đó được tóm tắt bằng Lục Thập Hỏa Giáp- một bảng biểu ngũ tóm tắt hành. Mỗi hai năm có cùng một hành, nhưng khác nhau về yếu tố Âm Dương. Nghĩa là một năm Âm và một năm Dương có cùng một hành.
Mục lục
Ngũ Hành Nạp Âm
Khi Can và Chi kết hợp với nhau, một loại hành mới phát sinh được gọi là ngũ Hành Nạp Âm. Cách kết hợp Can Dương với Chi Dương, Can Âm với Chi Âm tạo ra 30 ngũ hành nạp âm từ Giáp Tí đến Qúi Hợi. Cần chú ý rằng mỗi Chi đều có đủ ngũ hành, tùy theo Can mà có các hành khác nhau. Ví dụ, Tí có Giáp Tí hành Kim, Mậu Tí Hỏa, Nhâm Tí Mộc, Bính Tí Thủy, Canh Tí Thổ. Mỗi hành lại được chia thành sáu loại khác nhau là kết quả của sự kết hợp giữa 12 chi với sáu Can, chứ không kết hợp đủ mười Can. Điều này bởi vì Chi Dương chỉ kết hợp với Can Dương, Chi Âm chỉ kết hợp với Can Âm.
Theo nhạc điệu, giống cung thuộc thổ, chủy thuộc hỏa, thương thuộc kim, vũ thuộc thủy, giốc thuộc mộc. Khi kết hợp Can Chi từng năm với năm âm trên, lấy hành âm sinh ra làm hành năm. Mỗi năm lại bị chi phối bởi 12 luật, mỗi luật chứa năm âm, vì vậy năm âm thuộc 5 hành cơ bản chuyển thành 60 hành chi tiết của năm hành chính. Ví dụ hai năm đầu tiên là Giáp Tí và Ất Sửu mang âm Cung thuộc Thổ. Thổ sinh Kim, như vậy hai năm trên thuộc hành Kim, nhưng là Hải Trung Kim. Đây là hành nạp âm của hai năm Giáp Tí và Ất Sửu. Việc nạp âm cho vòng Giáp Tí phức tạp, ngày nay người ta sử dụng phương pháp tính toán hành nạp âm từ xưa để sử dụng.
Giải thích ngũ hành Nạp Âm
Cổ nhân có giải thích về phương pháp nhận định hành trong bảng trên. Khí Kim sinh tụ phương Khôn, tức là cung Thân trên thiên bàn, đi sang Nam thành Hỏa, qua Đông thành Mộc rồi trở về Bắc thành Thủy, rồi hoá Thổ về Trung Ương. Hành khí trên được sinh ra do sự phối hợp giữa Âm và Dương (thành ra ta cứ hai năm Dương và Âm thì có chung một hành, Dương ghi trước, Âm ghi sau) và theo nguyên tắc Âm Mẫu, Dương Chăn) phối hợp cách bát sinh tử. Nghĩa là sau tám năm thì có một hành mới được sinh ra theo qui tắc sinh ra như trên.
Ví dụ, năm Giáp Tí và Ất Sửu tạo thành hành Kim, sau sáu năm là Nhâm Thân và Qúi Dậu cũng tạo thành hành Kim, sáu năm sau là Canh Thìn và Tân Tỵ lại tạo thành hành Kim. Được ba lần hành Kim, đến lượt là hành Hỏa. Như vậy, hành Mậu Tí và Kỷ Sửu là Hỏa, sáu năm sau là Bính Thân và Đinh Dậu cũng là Hỏa, sáu năm sau là Giáp Thìn và Ất Tỵ cũng là Hỏa. Tiếp theo là Mộc, rồi Thủy, rồi Thổ, và lại lặp lại theo chu kỳ này.
Có sách ghi rõ ràng: Khí phát tụ phương Đông và đi về huớng tây mặt: Mộc truyền qua Hỏa, Hỏa truyền qua Thổ, Thổ truyền qua Kim, Kim truyền qua Thủy.
Âm thì khởi từ phương Tây đi về hướng tay trái. Nghĩa là năm Âm khởi đầu từ Kim, đi về hướng tay trái: Kim truyền qua Hỏa, Hỏa truyền qua Mộc, Mộc truyền qua Thủy, Thủy truyền qua Thổ.
Khí và Âm đi ngược chiều nhau thì mới sinh biến hoá.
Theo phép nạp âm, khi Can Chi đồng lọai, ta lấy nhau, cách bát thì sinh con. Để tính toán dựa trên nguyên tắc trên, ta phải bắt đầu từ Giáp Tí và Giáp Ngọ.
Giáp Tí và Ất Sửu đều thuộc Kim thượng nguồn. Giáp Tí (Dương) lấy vợ là Ất Sửu (Âm), cách bát sanh con là Nhâm Thân thuộc Kim trung nguồn. Nhâm Thân và Qúi Dậu đều thuộc Kim trung nguồn. Nhâm Thân (Dương) lấy vợ Qúi Dậu (Âm), cách bát sanh con là Canh Thìn. Canh Thìn và Tân Tỵ đều là Kim hạ nguồn.
Đến đây, hành Kim tâm nguồn hết rồi, nên đi về hướng tay trái truyền qua Hỏa ở phương Nam. Canh Thìn và Tân Tỵ đồng lọai, đều là Kim hạ nguồn, lấy nhau cách bát truyền qua Mậu Tí là hành Hỏa thượng nguồn. Mậu Tí và Kỷ Sửu thì đồng lọai, đều thuộc Hỏa thượng nguồn, lấy nhau, cách bát sinh con là Bính Thân. Bính Thân và Đinh Dậun thì đồng lọai, đều thuộc Hỏa trung nguồn, lấy nhau, cách bát sanh cháu là Giáp Thìn. Giáp Thìn và Ất Tỵ đều là Hỏa hạ nguồn. Đến đây, hành Hỏa tâm nguồn hết rồi, nên đi về hướng tay trái truyền qua Mộc ở phương Đông.
Theo nguyên tắc trên, khi hết tâm nguồn, ta lại đi về hướng tay trái, truyền qua (hết Mộc thì tới Thủy, hết Thủy thì tới Thổ), cho đến Bính Thìn và Đinh Tỵ thuộc Thổ hạ nguồn. Đi hết vòng ngũ hành này thì ta gọi là tiểu thành.
Bảng Tiểu Thành và Bảng Đại Thành
Bảng tiểu thành hiển thị sự sinh con của các hành, tốt nhất là đại kiết, tốt nhì là sanh cháu. Nếu không rơi vào trường hợp sanh con hoặc sanh cháu như đã viết trong bảng, ta cần xét xem hàng Can có khắc nhau, hàng Chi có xung nhau không. Nếu có cả thiên khắc và địa xung, hai hành gặp nhau sẽ xấu nhất, còn nếu chỉ có thiên khắc hoặc địa xung, cũng xấu nhưng không đáng quá lo ngại.
Trong trường hợp ngũ hành nạp âm tị hoà, có trường hợp tốt và trường hợp xấu. Trường hợp tốt là khi hai hành gặp nhau, cả hai đều yếu. Trường hợp xấu là khi cả hai đều mạnh. Ví dụ, Lư Trung Hoả gặp Phú Đăng Hỏa là tốt, còn Thiên Thuợng Hỏa gặp Tích Lịch Hỏa là xấu. Tuy nhiên, điều này có lẽ không đúng.
Sinh khắc của ngũ hành Nạp Âm
Qui luật sinh khắc của ngũ hành nạp âm có khác với ngũ hành chánh. Hỏa khắc Kim nhưng Hỏa không dễ khắc. Hải Trung Kim và Sa Trung Kim là Kim ở đáy biển hay Kim ở trong đất cát. Tuy nhiên, Hải Trung Kim và Sa Trung Kim lại sợ Hỏa Thủ Lôi (Tích Lịch Hỏa) vì Hỏa Thủ Lôi có thể đánh xuống đáy biển, đánh xuống tận tầng đất sâu. Kiếm Phong Kim rất cần Hỏa vì có lửa luyện thì mới thành kiếm sắc. Bạch lạp Kim là Kim trên cây nến rất dễ bị Hỏa khắc, nhưng gỗ trong cột phần lớn lại cần có Kim chế ngự. Suy Kim không thể khắc Mộc vượng, trừ khi Mộc yếu mà gặp Kim vượng thì bất lợi. Nói chung, Đại Lâm Mộc và Bình Địa Mộc không dễ bị Kim khắc. Mộc sợ nhất là Kiếm Phong Kim vì đây là Kim của vũ khí.
Mộc có thể khắc Thổ nếu Thổ ở đồng ruộng phần lớn là Thổ vượng, rừng cây thưa (Mộc suy) nếu không thì không nuôi được mùa mạng. Mộc suy và Thổ vượng thì Mộc không thể khắc Thổ. Mộc vượng và Thổ suy thì tất sẽ bị khắc. Nói chung, Thổ trên tường (Bích Thuợng Thổ), Thổ ở bãi ruộng Đại Trạch Thổ không dễ bị Mộc khắc. Nhưng Thổ sợ nhất là Đại Lâm Mộc và Bình Địa Mộc khắc.
Thổ có thể khắc Thủy. Thủy nhiều, Thủy vượng bao vây Thổ, có thể tưới ruộng, tưới nhuận vạn vật, nên suy Thổ không khắc được vượng Thủy. Nếu Thủy suy, Thổ vượng tất sẽ bị khắc. Thủy sợ Thổ khắc nhưng Thiên Hà Thủy, Đại Hải Thủy (Thủy ở đại Dương) không những không sợ Thổ khắc mà còn khắc ngược lại. Thủy có thể khắc Hỏa. Hỏa nhiều, Hỏa vượng thì cần Thủy chế. Hỏa vượng, Thủy suy thì không sợ Thủy khắc. Thủy vượng, Hỏa suy tất sẽ bị khắc. Hỏa Thủ Lôi không những không sợ bị Thủy khắc, ngược lại trời mưa càng to, sét còn có thể chui xuống đáy biển để khắc Thủy.