Những đặc trưng tinh thần của Xuân Diệu có lẽ không gì khác hơn là sự vội vàng. Từ lâu, người ta đã nhận thấy: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Với việc đặt tựa đề “Vội Vàng” cho bài thơ đặc trưng của mình, Xuân Diệu đã biểu hiện sự thấu hiểu bản thân một cách rõ ràng. Điều này cho thấy ông rất tự tin trong sự nghiệp thi ca của mình.
Thực sự, cái tính chất sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu có nguồn gốc từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của cuộc sống, về sự không thể tránh khỏi cái chết. Sống là một niềm hạnh phúc kỳ diệu. Vì thế, chúng ta phải tận hưởng và hiến dâng mình! Cuộc sống ngắn ngủi, cần phải tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đầy đủ. Do đó, chúng ta phải nắm bắt từng khoảnh khắc, phải đua đòi với thời gian. Ý thức này luôn thúc đẩy và áp lực chúng ta. Bài thơ này được viết dựa trên triết lý này.
Thường thì, việc kết hợp chính luận và thơ là rất khó khăn. Đặc biệt là thơ có xu hướng nghiêng về cảm xúc và ngại ngần hơn khi gắn kết với chính luận. Tuy nhiên, việc truyền đạt ý niệm và lập thuyết không thể thiếu chính luận. Thơ của Xuân Diệu thuộc loại thơ cảm xúc, nhưng nếu đọc kĩ, chúng ta sẽ thấy thơ của Xuân Diệu cũng chứa đựng sự giàu chính luận. Nếu cảm xúc tạo nên nội dung và hình ảnh sáng tạo như mây trôi, nước chảy trên trang thơ, thì chính luận lại ẩn mình, lặn sâu trong cấu trúc của tác phẩm. Do đó, dòng thơ luôn tự nhiên và mượt mà. “Vội Vàng” cũng không phải là ngoại lệ. Nó là một dòng cảm xúc tràn đầy, bồng bột, đôi khi thậm chí là một cuộn lũ cảm xúc, mang theo nhiều hình ảnh sắc nét như những tấm gấm thêu của cảnh vật trần gian. Nhưng nó cũng là một tuyên ngôn bằng thơ, trình bày quan niệm về cuộc sống vội vàng. Có lẽ không phải là thơ để minh hoạ cho triết học, mà đó chính là cảm nhận triết học của một linh hồn thơ.
Mục đích lập thuyết và hình thức tuyên ngôn đã quyết định cấu trúc của “Vội Vàng”. Bài thơ khá dài, nhưng tự nó đã được hình thành thành hai phần rõ rệt. Điểm ranh giới giữa hai phần được đặt ở ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về giải thích lý do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là sự diễn tả trực tiếp hành động vội vàng đó. Nói một cách vui vẻ: phần trên là lý thuyết, phần dưới là thực tế! Điều dễ thấy là tác giả đã chọn cách diễn đạt khác nhau cho từng phần. Trên, ông xưng “tôi” – lý thuyết, đối thoại với đồng loại. Dưới, ông xưng “ta” – đương đầu với cuộc sống. Thứ tự lập luận có xu hướng cắt bóc bài thơ. Nhưng giọng thơ tràn đầy sức sống và ào ạt, làm mờ mọi rào cản, tạo nên một tác phẩm sống động, tươi mới và truyền cảm.
Đoạn đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn đặc biệt của tác giả. Đó là ước muốn phá vỡ quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể nào thực hiện:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
“Muốn tắt nắng”, “muốn buộc gió” thật là những ham muốn kỳ lạ, chỉ tồn tại trong thơ ca. Nhưng làm cách nào có thể chống lại quy luật, làm cách nào để biến những điều ngắn ngủi mong manh ấy thành vĩnh cửu? Niềm ham muốn kỳ lạ ấy đã mở ra trước chúng ta một trái tim yêu đời, tràn đầy ham mê với thế giới thơm ngát này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách độc đáo. Nó tràn đầy như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc tráng lệ của thế gian. Nó được cảm nhận bằng sự tinh tế nhất của một linh hồn đầy ham muốn, do đó sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy tình xuân. Thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong “Vội Vàng” vừa như một mảnh vườn tình yêu, vạn vật đang tươi tốt, vừa như một bữa tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại cũng như một người tình gợi cảm. Xuân Diệu cũng trải nghiệm thế giới theo cách riêng. Ông yêu thiên nhiên như yêu tình yêu. Yêu thiên nhiên thật chất là yêu bản thân mình với thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả sôi nổi về một thiên nhiên trong thời kỳ xuân sắc, một thiên nhiên rực rỡ tình yêu:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Có thể nói trước Xuân Diệu, chưa từng có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy khiến tháng giêng trở nên xinh đẹp như một người tình rạo rực, tươi tắn.
Hai đoạn thơ đầu tiên liên kết với nhau bằng một lô-gic lặng lẽ. Tác giả muốn “tắt nắng”, muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi sắc hương cho một thế giới đẹp như vậy. Hương sắc là sinh khí, là vẻ đẹp, là sắc mặt của thế giới. Tất cả chỉ sáng rực trong thời kỳ xuân. Nhưng xuân lại ngắn ngủi. Và đó là phần thú vị của “Vội Vàng”. Nó là sự giao thoa giữa “thời phai tàn” (thời xuân) và “thời tươi”:
“Chim rộn ràng chợt dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Có thể nói ý niệm về “thời tươi” đã chi phối toàn bộ “Vội Vàng” trong việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy không ngừng của nó.
Đó là cảm xúc mãnh liệt, sự ham muốn mãnh liệt, vồ vập của tác giả đã được thể hiện một cách toàn diện và sôi nổi nhất trong đoạn thơ này:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”
Nếu chọn một đoạn thơ mà giọng nói sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu được thể hiện rõ nhất, đó phải là đoạn này. Ta có thể nghe thấy giọng thơ, nghe thấy nhịp đập của trái tim Xuân Diệu trong từng câu thơ. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, vào tâm hồn người đọc. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ gồm ba chữ, nhưng nó lại nằm ở vị trí đặc biệt, vô cùng ý nghĩa. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một con người đầy ham muốn, đang đứng giữa trần đời, dang rộng vòng tay, mở lòng để ôm gọn, ôm trọn mọi cảnh sắc tươi tốt, trinh nguyên của thế gian này. “Ta muốn” được lặp lại nhiều lần, với mật độ dày đặc, đúng đáng. Mỗi lần điệp lại đi kèm với một động thái ham muốn ngày càng mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” không thể xem nhẹ trong thơ pháp trung đại, vốn coi trọng những cụm từ ngắn gọn. Thậm chí đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ lù lù. Tại sao lại lặp từ “và” như vậy? Nhưng đó lại là cách sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những từ “và” xuất hiện để tạo ra sự thể hiện nguyên trạng của giọng nói, cái cảm xúc của tác giả. Chúng thể hiện một cách trực tiếp, sống động cái cảm xúc ham muốn, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong trái tim yêu đời của tác giả.
Đoạn thơ cuối cùng của bài thơ là lúc tuyên ngôn được biểu hiện thành hành động, đó là Vội Vàng trong hình thức sống cá nhân của tôi. Bài thơ kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, những ham muốn mỗi lúc một mạnh mẽ, vồ vập. Đó là tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như vậy, Xuân Diệu mới thể hiện được cảm xúc ham sống, khát sống trào phúng:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”
Nếu phải chọn một đoạn thơ để thể hiện giọng nói sống động, sôi nổi nhất, thì đó chính là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, có thể nghe thấy nhịp đập của trái tim Xuân Diệu qua từng câu thơ. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan xen, giao thoa, song song, thủy chung đến tận tâm hồn của người đọc. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ có ba từ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt, thật ý nghĩa. Xuân Diệu muốn tạo nên hình ảnh một con người đầy ham muốn, đang đứng giữa trần thế, nới rộng vòng tay để ôm gọn, ôm trọn mọi cảnh sắc tươi đẹp, trinh nguyên của thế gian này. “Ta muốn” được lặp đi lặp lại, mật độ dày đặc, và đích đáng. Mỗi lần lặp lại đi kèm với một hành động yêu thích mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” không phải là câu thơ nhẹ nhàng trong thơ ca trung đại, vốn coi trọng việc sử dụng từ ngắn gọn. Thậm chí, đối với người xưa, đó có thể được xem là một câu thơ vụng về. Tại sao lại dùng từ “và” thừa thãi như vậy? Đó chính là sự sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Chữ “và” hiện diện là để thể hiện nguyên trạng của giọng nói, cái khẩu khí của tác giả. Nó tạo ra sự trực tiếp, sống động của cảm xúc ham muốn, tham lam trong tâm hồn yêu đời của tác giả.
Sống là một niềm hạnh phúc. Để đạt được niềm hạnh phúc, chúng ta phải sống vội vàng. Vậy là “Vội Vàng” trở thành cách duy nhất để tiếp cận niềm hạnh phúc, là chính hạnh phúc và có vẻ như cũng là giá trị đối với hạnh phúc! Xuân Diệu đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Rõ ràng tác giả đã chứng tỏ mình thuộc về tuổi trẻ khi trình bày “Vội Vàng”!
Nguồn: Chu Văn Sơn, Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân Diệu – Nguyễn Bính – Hàn Mặc Tử, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.