Kinh An Ban Thủ Ý là một phần quan trọng của giáo lý đại thừa dùng để giúp tề tựu và cứu độ con người đang lênh đênh trong sự chìm nổi. Kinh An Ban bao gồm sáu loại, mục đích là đối phó với sáu tình trạng khác nhau. Sáu tình bên trong gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, trong khi sáu tình bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc và tà niệm. Kinh cũng đề cập đến mười hai mặt nguy hiểm của biển cả, đại diện cho tình hình tai họa do sáu tình bên trong và sáu tình bên ngoài gặp nhau.
Tâm trí con người giống như biển cả tiếp nhận nước từ dòng sông, như một người đói luôn ăn không no. Tâm trí chứa đựng mọi thứ, không có gì mà tâm không tiếp nhận được. Sự diễn ra và chuyển động của tâm lý xảy ra nhanh chóng và liên tục.
Chúng ta không thể nhìn thấy tâm vì nó không có hình dạng, không nghe thấy tâm vì nó không có âm thanh. Nếu ta cố tìm kiếm, ta sẽ không gặp tâm vì nó không có điểm khởi đầu, và cũng không gặp tâm khi ta điều tra ngược lại vì nó không có điểm kết thúc. Tâm rất sâu thẳm và kỳ diệu, không ai, kể cả các tiên nhân và các vị thánh không thể thấy rõ sự hình thành và phát sinh của những hạt giống ẩn chứa trong nó, huống hồ là người thường. Vì vậy, tâm được gọi là ấm (ngăn che). Đó tương tự như một người gieo hạt trong bóng tối, khi người đưa tay lên, hàng vạn hạt được gieo xuống. Người bên ngoài không thể nhìn thấy hình dạng những hạt giống đó, và chính người gieo cũng không thể biết được số lượng của chúng. Một nắm hạt được gieo xuống, hàng vạn cây con sẽ mọc lên. Tương tự, trong khoảng thời gian ngắn, tâm có thể trải qua đến 960 lần chuyển niệm. Trong một ngày và một đêm, tâm có thể trải qua 13 triệu tư duy mà chúng ta không hề biết, như người gieo hạt kia. Vì vậy, chúng ta phải thực hành tập trung tâm trong thời gian, tập trung vào hơi thở và đếm từ một đến mười. Trong khoảng thời gian đếm mười hơi thở đó, nếu đếm không bị lạc, là khi ý bắt đầu trở nên kiên định. Định nhỏ có thể kéo dài trong ba ngày, định lớn thì kéo dài bảy ngày. Trong khoảng thời gian đó, không có suy nghĩ nào xâm nhập vào, người hành giả ngồi yên như người đã chết, đó được gọi là thiền định sơ.
Thiền định có nghĩa là loại bỏ. Loại bỏ tâm có mười ba tư duy để đạt tới tám pháp: đếm, định, chuyển, niệm, trước, tùy, xúc và trừ. Tám pháp này được chia thành hai phần. Tâm thức chỉ định được nhờ việc theo dõi hơi thở. Để theo dõi hơi thở dễ dàng hơn, chúng ta nên thực hành phép đếm hơi thở. Khi tư duy rõ ràng đã được xóa bỏ, ý thức sẽ dần trở nên trong sáng. Đó gọi là thiền định nhị. Sau khi loại bỏ phép đếm, chú trọng vào chóp mũi, đó gọi là chỉ. Khi thành công, tất cả cấu uế của ba chất độc, bốn sự rong ruổi, năm sự ngăn che và sáu đường ám muội đều bị xóa bỏ. Lúc đó, tâm thức tỏa sáng, sáng hơn cả ánh trăng và nguyên minh. Những tư duy dâm tà và ô nhiễm như bùn nhơ dính vào tấm kính sáng đều được rửa sạch. Tấm kính này giờ đây được đặt trên mặt đất và hướng về phía trời, không có cõi nào mà không chiếu sáng. Trời đất rộng lớn vô hạn, nhưng một tấm kính vẫn có thể chứa đựng tất cả. Tâm chúng ta bị cấu uế che phủ giống như tấm kính bị bùn đất làm dơ, nếu gặp minh sư tinh tường chải chuốt và làm sạch hết bụi bặm, khi ta đưa tâm ra chiếu sáng, không có gì có thể trốn thoát trên bề mặt kính. Khi bụi bẩn đã không còn, ánh sáng tỏa ra. Điều đó là tất nhiên. Ngược lại, nếu phiền não tràn ngập và tâm thức đang hoang mang, trong một triệu tư duy nhớ lên, chúng ta sẽ không nhận biết được một tư duy nào. Tương tự như ngồi ngoài chợ và nghe tiếng ồn ào, khi trở về và cố ghi nhớ lại, chúng ta không thể nhớ được bất cứ điều gì.
Nguyên nhân khiến tâm thức tung tăng và tư duy hoang mang là do uế trược chưa được giải thoát. Nếu ta tìm đến nơi yên tĩnh để thực hành tập trung và không để ý tới những ham muốn gợi lên, lúc đó tai nghe sẽ trở nên rõ ràng, ta có thể nghe được tất cả những gì, không có lời nào bị bỏ sót. Tâm thức sẽ trở nên yên lặng, ý thức không bị cuốn hút bởi những ham muốn, điều đó gọi là tam thiền.
Trở lại và quan sát cơ thể từ đầu đến chân, ta có thể nhìn thấy mọi lỗ chân lông trên cơ thể và nhận ra những chất ô nhiễm dày đặc trong toàn bộ cơ thể. Từ đó, ta có thể quan sát cả trời, đất, con người và sự vận động của các hiện tượng đó và thấy rõ tính cách không thể thay đổi của chúng. Khi niềm tin trong ba bảo thân trở nên vững chãi. Khi đã hoàn toàn lắng xuống, tâm không còn ảo tưởng, điều đó gọi là định. Hành giả đã đạt được pháp An Ban và thấy tâm thức của mình tỏa sáng. Sử dụng ánh sáng đó để quan sát, không có điểm tối mà không thể chiếu sáng. Người đó có thể nhìn thấy những gì đã xảy ra trong vô số kiếp trước và cả những cảnh giới hiện tại cùng với con người và vật trong cảnh giới đó, bao gồm các vị Bụt đang truyền đạo và những đệ tử đang học tập và thực hành. Lúc đó, không có cảnh nào mà không thấy, không có tiếng nào mà không nghe, người đó đạt được sự tự do tuyệt đối, không bị ràng buộc bởi ý niệm về sự tồn tại, sự mất mát, và nhìn thấy sự vĩnh cửu như núi Tu Di trong điều vô hình như lỗ chân lông, kiểm soát thể xác. Sức mạnh của người này trở nên mạnh mẽ, có thể đánh bại cả binh đoàn thiên sứ, di chuyển tam thiên thế giới, đi qua vạn ngàn quốc gia, tiêu hóa vào cõi không gian không thể nói, sức mạnh này ngay cả Phạm Thiên cũng không thể dự đoán. Thần đức của họ trở nên vô hạn, chỉ vì họ đã tu tập tam bảo. Trước khi Bụt thuyết giảng bản kinh này, cả nhân loại và thiên địa đều rung động và thay đổi màu sắc. Trong ba ngày, không ai được tiếp xúc với Đức Phật. Rồi Bụt hiện ra với hai thân thể, một là thân phật, một là thân tức để truyền đạt chân nghĩa. Các bậc đại sĩ và những người trên con đường tu hạnh, không ai không tuân theo lời dạy của Bụt.
Có một bồ tất tên An Thanh, hiệu là Thế Cao, là con của vua An Tức, sau khi nhường ngôi cho người chú, đã lánh sang đất nước này. Sau khi đi đây đi đó, cuối cùng anh ta đến gặp các vị giáo sư trí thức. Anh ta là người có kiến thức sâu rộng về bảy môn học thời đại đó. Kiến thức của anh về phong khí, điềm lành, tai ương như động đất núi dời, y thuật như nhìn mặt biết bệnh, đều rất vững vàng. Anh ta cũng biết âm thanh của chim và các loài động vật và cảm nhận sự rộng lớn của âm dương. Nhìn thấy nhân dân sống trong bóng tối, anh ta cảm thấy xót xa và muốn mở rộng sự thấu hiểu của họ. Vì vậy, anh ta truyền bá con đường giải thoát và biên dịch Kinh An Ban Thủ Ý này. Không ai học theo anh mà không giải thoát khỏi uế trược và đạt đến sự sống sáng tỏ và trong sáng.
Tôi, Tăng Hội, mới sinh ra đã mất cha mẹ từ khi còn rất nhỏ. Cả ba người thầy cũng đã qua đời và lên núi. Mỗi khi nhìn lên mây trời, tôi không khỏi cảm thấy xúc động và những giọt lệ rơi xuống. May mắn thay, nhờ duyên phận kiếp trước chưa hết, tôi đã gặp được ba vị hiền giả là Hàn Lâm, Bì Nghiệp và Trần Tuệ. Ba vị này đều tin tưởng mạnh mẽ, chí đức cao siêu và không biết mệt mỏi trong việc phục vụ Phật pháp. Khi gặp gỡ và trò chuyện với ba vị, tôi nhận thấy rằng chúng tôi hoàn toàn phù hợp trong lối sống và ý thức cùng hợp tác. Trần Tuệ giải thích và giải nghĩa, trong khi tôi giúp đỡ bằng cách sàng lọc và chỉnh sửa. Tuy nhiên, chúng tôi không dám thêm bớt những điều mà đại sư không truyền thừa. Không thể diễn tả hết ý niệm của Đức Phật, vì vậy chúng tôi kính mời các hiền giả hiểu biết cùng tham khảo. Nếu có điểm nào còn thiếu sót, xin vui lòng bổ sung để làm rõ thêm ý nghĩa của Đức Phật.