Trong vùng Điện Bàn, có một câu ca dao nổi tiếng: “Ai đua Sông Trước thì đua, Sông Sau có miếu thờ vua xin đừng!”. Bạn có biết đâu là Sông Trước và Sông Sau hiện nay không? Hãy cùng tìm hiểu nhé!
Cặp đôi địa danh
Ngày xưa, người xưa thường đặt cặp đôi tên gọi cho hai xóm làng, dòng sông núi gần nhau, biểu thị vị trí tương ứng. Ví dụ như (xóm) Thượng/(xóm) Hạ, (thôn) Đông/(thôn) Đoài.
Với câu ca dao này, tên gọi dân gian của hai con sông được hình thành dựa trên vị trí trước/sau. Bài viết “Quá trình hình thành vùng đất Gò Nổi” trên gonoi.net đã giải đáp rõ vấn đề này như sau:
“Khu Gò Nổi thuộc sông Thu Bồn, có nguồn gốc từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn Chiên Đàn phía Tây Nam Tam Kỳ, nguồn Ô Gia phía Tây huyện Đại Lộc. Hai nguồn này hợp lưu tại Giao Thủy, từ đó dòng nước chảy về hướng Đông, gặp một cồn cát lớn gần làng Vân Ly. Dòng nước này chia thành hai nhánh, một nhánh chảy về phía bắc, một nhánh chảy về phía nam – đó là Sông Trước. Sông Trước chảy qua các làng như: An Lâm, Cù Bàn, La Tháp, Thanh Châu, Thọ Xuyên, Chiêm Sơn, Trà Kiệu, Mỹ Xuyên thuộc huyện Duy Xuyên. Tiếp theo, nó chảy về hướng đông nam qua bến Dưỡng Chân phía bắc huyện Quế Sơn, rồi hợp lưu với sông Chợ Củi, đổ ra cửa Đại Chiêm (Cửa Đại, Hội An – ĐNCT). Sông này còn được gọi là Sông Bà Rén.
Trải qua thời gian, ảnh hưởng của con người và thiên nhiên đã khiến bờ sông xói lở, thay đổi dòng chảy, chia cắt một số làng phía bắc sông như: Na Kham, Thạnh Mỹ, Phú Bông, Thi Lai. Dòng chảy tới Thi Lai, tách ra một nhánh chảy hướng bắc qua các làng Mỹ An, Tiệm Rượu, Câu Nhí. Tại đầu làng Câu Nhí, nhánh này lại tách ra một nhánh chảy xuống phía đông kết hợp với sông Chợ Củi (sông này đã có từ trước).
Vào niên hiệu thứ ba của vua Minh Mạng (1822), vua đã đào sông Câu Nhí đến Cẩm Sa, dài 850 trượng theo đường thủy cũ. Sông này ban đầu hẹp, dòng nước nhỏ, chỉ có thuyền nhỏ mới đi được. Vào niên hiệu thứ bảy của vua Minh Mạng (1826), vua đã cho sửa lại sông, dời xuống 40 trượng, làm rộng và sâu miệng sông để đón nước từ Sông Lớn (Sông Trước). Sông Vĩnh Điện chảy về hướng bắc, hợp lưu với sông Cẩm Lệ tại làng Hóa Khuê Trung (Hòa Vang), chảy ra biển Sông Hàn.”
Sau quá trình hình thành sông Vĩnh Điện, nước từ Sông Lớn (Sông Trước) dồn về, làm mực nước sông này cạn dần. Ngược lại, nhánh sông chảy ra phía bắc đầu làng Văn Ly nhận được nước chảy về, tốc độ dòng lớn gây xói lở, chia cắt một số làng như Văn Ly, Kỳ Lam, Bất Nhị, Câu Nhí, tiếp tục hợp lưu với sông Chợ Củi. Mọi người quen gọi khúc sông này là Sông Sau, và câu ca dao dân gian đã ra đời: “Ai đua Sông Trước thì đua, Sông Sau có miếu thờ vua xin đừng!”
Sông Thu Bồn
Từ Cửa Đại đến nguồn, toàn bộ dòng sông được gọi là sông Thu Bồn, nằm ở phía bắc khu Gò Nổi. Ghe thuyền có thể lưu thông trên sông này cả xuôi và ngược. Sông Trước (sông Bà Rén) chỉ còn khô, cạn dần, chỉ khi có lụt lớn, nước mới chảy qua.
Ngoài ra, câu ca dao này còn có một phiên bản khác, được đăng trên Đặc san Tây Sơn – Quang Trung Xuân Quý Dậu 1993 với bài viết “Lòng dân với nhà Tây Sơn” của Quách Tấn – Quách Giao. Sau khi ngôi đường của nhà Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn phá hủy, người dân ở Bình Khê (tỉnh Bình Định) đã lập đình làng để thờ ba vua Tây Sơn, nhưng chỉ vái thầm mà không đọc văn. Vì sợ bị vua quan của nhà Nguyễn phát hiện, ngày kỵ gọi đình là “cúng cơm mới”. Lâu ngày chính quyền vùng đất biết được, vừa sợ “thần linh bẻ họng”, vừa sợ mất lòng dân nên bắt đầu lờ đi.
Tất cả tầng lớp nhân dân đều lòng kính yêu và nhớ tiếc ba vua Tây Sơn, ai đi ngang qua đình Kiên Mỹ cũng giở nón cúi đầu. Và câu ca dao địa phương có nội dung: “Đá Hàng cữ nước không sâu, Hàng Thuyền lai láng mặt dầu cá đua. Có đua sông trước thì đua, Sông sau mắc miễu thờ vua xin đừng”.
Hy vọng qua bài viết này, bạn đã có câu trả lời cho câu hỏi về Sông Trước và Sông Sau ngày nay.
– ĐNCT-