Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi, xuất thân từ dòng dõi Hùng Vương, con của quan Lạc tướng Mê Linh. Mẹ của hai chị em là bà Man Thiện, người làng Nam Nguyễn – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội. Sau khi chồng qua đời, bà Man Thiện nuôi dạy hai chị em một mình, dạy cho họ nghề trồng dâu, nuôi tằm; và rèn luyện lòng yêu nước, sức khỏe và võ nghệ.
Trưng Trắc là một phụ nữ đảm đang, dũng cảm và mưu trí. Chồng bà là Thi Sách, con trai của quan Lạc tướng huyện Chu Diên (Hà Nội). Gia đình của Thi Sách là một gia đình yêu nước và có thế lực ở đất Chu Diên.
Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị được nhân dân Mê Linh tin tưởng và quý mến. Hai chị em lâu nay căm thù cuộc sống bạo ngược của Tô Định, viên thái thú nhà Đông Hán. Chính sách bạo ngược này thực chất là sự áp bức và bóc lột của nhà Đông Hán đối với toàn bộ người Âu Lạc, từ lạc tướng cho đến nô lệ.
Hôn nhân giữa Trưng Trắc và Thi Sách đã làm cho thế lực của Trưng Trắc, đối lập với chính quyền do Tô Định làm đại biểu, càng ngày càng mạnh mẽ. Để giảm bớt thế lực của gia đình Trưng Trắc lan rộng khắp vùng Vĩnh Phúc, Tô Định đã âm mưu ám sát Thi Sách. Hành động bạo ngược của Tô Định không làm cho Trưng Trắc chùn bước, mà lại thêm quyết tâm tiến hành cuộc khởi nghĩa để đánh đổ chính quyền đô hộ và áp bức của nhà Đông Hán, khôi phục độc lập và trả thù cho dân tộc.
Bà Trưng đã quyết định đặt nợ nước lên trên thù chồng. Trước ba quân, bà nêu rõ 4 mục tiêu của cuộc khởi nghĩa:
- Rửa sạch nước thù
- Dựng lại nghiệp xưa của dòng họ Hùng
- Kêu oan ức lòng chồng
- Vẻn vẹn công lênh này
Vào tháng 2 năm Canh Tý (năm 40), Trưng Trắc cùng Trưng Nhị đã phát động khởi nghĩa tại cửa sông Hát, thuộc huyện Phúc Thọ – Hà Nội. Người yêu nước từ khắp nơi đã kéo về tụ nghĩa tại Mê Linh. Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến về phía bắc, tiến đánh Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) – thành lũy của chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ. Chế độ áp bức của nhà Hán bị lật đổ, và Luy Lâu được giải phóng.
Dân tộc Việt Nam và các tộc người khác ở Giao Chỉ, Cửu Chân (nay là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), Nhật Nam (nay là miền đất từ dãy Hoành Sơn đến Quảng Nam) đều căm giận với chế độ áp bức và bóc lột tàn tệ của nhà Đông Hán. Vì thế, khi chính quyền nhà Đông Hán bị đánh đổ ở Luy Lâu, nhân dân ở các vùng này đã hào hứng tham gia cầm vũ khí chống lại quan lại và quân lính nhà Đông Hán.
Với sự ủng hộ và hưởng ứng của nhân dân, nghĩa quân của Hai Bà Trưng đi đến đâu, chính quyền và quân đội nhà Đông Hán tan vỡ đến đấy. Các dân tộc Mán, Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều ủng hộ. Những kẻ Tô Định, Thứ sử, Thái thú của nhà Đông Hán thấy nghĩa quân nổi lên như cơn bão, đã hoảng sợ và bỏ chạy về Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa địa phương đã thống nhất thành một phong trào nổi dậy rộng lớn của quần chúng ở khắp nơi, từ miền xuôi đến miền ngược, bao gồm cả người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã giải phóng được 65 huyện thành, tức là toàn bộ lãnh thổ đất nước Việt Nam lúc đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, mang đến cho đất nước sự độc lập hoàn toàn. Trưng Trắc được tôn làm vua (Trưng Vương) và đặt đô ở Mê Linh:
- Đô Kỳ đóng cõi Mê Linh
- Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Hiểu rõ sự thống khổ của nhân dân, khi lên ngôi vua, mặc dù chỉ trong thời gian ngắn nhưng Trưng Vương đã có những quyết sách quan trọng như miễn thuế khóa cho nhân dân trong hai năm, xóa bỏ chế độ lao dịch và binh pháp cũ… Nhờ sự anh hùng của Trưng Vương, đất nước đã duy trì và bảo vệ độc lập và quyền tự chủ dân tộc trong khoảng 3 năm.
Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã lật đổ chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Tin này đã được đưa về triều đình nhà Hán. Vua Quang Vũ nhà Hán đã chuẩn bị cuộc phản công. Năm 42, Quang Vũ sai ba tướng quân là Mã Viện và Lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí đem quân đến vùng Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô để đánh Trưng Vương.
Bộ binh của Mã Viện và thủy binh của Đoàn Chí gặp nhau ở Hợp Phố. Tại đây, Đoàn Chí mắc bệnh và qua đời, nên Mã Viện đã tiếp quản thủy binh của Đoàn Chí. Mã Viện cùng quân đội đã tiến vào Âu Lạc. Đầu tiên, quân Hán đã đánh vào tỉnh Hồng Quảng. Từ Hồng Quảng, quân Hán tiến lên sông Bạch Đằng, sau đó tiến vào Lãng Bạc – Tiên Du – Bắc Ninh.
Sau khi nhận được tin quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện tiến vào Lãng Bạc, Trưng Vương cùng Trưng Nhị đã đem quân từ Mê Linh đi đánh Mã Viện. Tại đây đã diễn ra một cuộc chiến ác liệt giữa quân ta và quân địch xâm lược. Quân của Trưng Vương đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do yếu thế nên đã thua, và buộc phải rút về Cẩm Khê (Yên Lạc – Vĩnh Phúc). Mã Viện đã đuổi theo quân ta. Sau gần 1 năm dũng cảm chống địch, cuối cùng vì yếu đuối, quân ta tan vỡ. Hai Bà Trưng trở về Hát Môn (Phúc Thọ – Hà Nội) và tự thả mình xuống dòng sông Hát. Cuộc kháng chiến do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã thất bại ở đây. Tuy nhiên, ở nhiều nơi khác, nhân dân và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu chống giặc. Ở Cửu Chân, một phần nghĩa quân do Đô Đương chỉ huy vẫn tiếp tục chiến đấu chống quân xâm lược nhà Đông Hán.
Vào tháng 11/43, Mã Viện đã mở đường qua Tạc Khẩu (Yên Mô – Ninh Bình) để tiến quân vào Cửu Chân và đàn áp nghĩa quân. Các lãnh đạo địa phương cùng nhân dân ở đây đã tiếp tục chiến đấu dũng cảm. Hàng trăm thủ lĩnh và hàng ngàn nghĩa quân đã bị Mã Viện tàn sát. Đất nước đã mất lại quyền độc lập.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng tuy chỉ duy trì độc lập cho đất nước trong khoảng 3 năm, nhưng ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa đó vô cùng vĩ đại và không thể phai mờ. Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí kiên cường và tinh thần quật cường của dân tộc ta, đồng thời thể hiện truyền thống yêu nước mạnh mẽ của phụ nữ Việt Nam trong những năm 40 sau Công nguyên. Phụ nữ Việt Nam từ thời cổ đại không chỉ mạnh mẽ và không khuất phục, mà còn có khả năng lãnh đạo trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng đã chấn động cả miền Nam. Từ trong ngọn lửa của cuộc nổi dậy mạnh mẽ đó, truyền ra chân lý lịch sử “Một dân tộc dù nhỏ bé nhưng tự mình đã xây dựng và làm chủ đất nước và số phận mình. Không một sức mạnh nào có thể tiêu diệt được nó”. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo là kết tinh của một quá trình đấu tranh âm thầm và công khai của nhân dân Việt Nam. Đó là một phong trào nổi dậy toàn dân, vừa tập hợp vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng khởi xướng, vừa lan rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ.
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng là biểu tượng cho sự vươn lên của dân tộc ta và đặt nền móng cho sự phát triển tiếp theo của lịch sử Việt Nam. Nó đã mở đường và chỉ rõ hướng đi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo là một trang sử vô cùng đẹp đẽ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của dân tộc và là niềm vinh dự của phụ nữ. Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về Hai Bà Trưng!