Những năm qua, chúng ta đã tiến hành việc chuyển đổi từ Hán Việt sang từ thuần Việt, nhằm tạo ra một ngôn ngữ Việt trong sáng hơn, phản ánh chính xác hơn cuộc sống đa dạng trong bối cảnh quay trở về nguồn gốc. Tuy nhiên, thời gian gần đây, chúng ta lại nhận thấy một xu hướng đảo ngược – việc sử dụng lại từ Hán Việt đã từng được chuyển đổi sang từ Việt thuần (hoặc gần thuần). Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do với sự phát triển trí tuệ của cộng đồng, các văn bản hành chính, chính trị, pháp luật, nghiên cứu xã hội ngày càng sử dụng nhiều từ Hán Việt để phản ánh sâu sắc hơn đời sống. Đồng thời, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, cũng không tránh khỏi việc sử dụng từ Hán Việt để chỉ các thuật ngữ chuyên ngành.
Mặc dù vậy, trong một số trường hợp cụ thể, chúng ta vẫn có thể chuyển đổi một số từ Hán Việt sang các từ Việt thuần quen thuộc hơn với người Việt. Dưới đây là một số gợi ý cho việc chuyển từ:
Gợi ý cho việc chuyển đổi từ Hán Việt sang từ Việt thuần
- Trù phú, phì nhiêu: Màu mỡ, giàu có, tươi tốt.
- Sơ bộ: Bước đầu.
- Thường nhật, thường niên: Hằng ngày, hằng năm.
- Hy hữu, hãn hữu: Hiếm có.
- Tái lập, tái diễn: Lặp lại.
- Trạm xá: Trạm y tế.
- Sử dụng: Dùng.
- Nội nhật: Trong ngày.
- Băng hoại: Suy sụp, đổ vỡ, tan tác.
- Trầm kha: Bệnh nặng.
- Đa phần, đa số: Phần lớn, số đông.
- Tối đa, tối thiểu: Cao nhất, thấp nhất.
- Thí điểm: Làm thử.
- Triển khai, tiến hành, thực hiện: Làm.
- Khả ái, khả kính: Đáng yêu, đáng kính trọng.
- Địa chấn: Động đất.
- Tháp tùng: Đi cùng, đi theo.
- Ẩm thực: Ăn uống.
- Ngoại quốc: Nước ngoài.
- Tham quan: Đi thăm.
- Khai mạc, triển khai: Bắt đầu, mở đầu.
- Tạo tác: Làm ra.
- Phát biểu, phát ngôn: Lời nói, nói chuyện.
- Cự ly: Khoảng cách.
- Quan sát: Xem xét.
- Mạn đàm: Nói chuyện.
- Địa cầu: Quả đất.
- Cường điệu: Thổi phồng.
- Khiếm thị: Kém mắt, hỏng mắt.
- Khiếm khuyết: Thiếu sót.
- Nan giải: Khó khăn.
- Cập nhật: Mới nhất, kịp thời.
- Phụ huynh: Bậc cha mẹ.
- Thái quá: Quá mức.
- Bất cập: Chưa đạt, không đủ.
- Tư gia: Nhà riêng.
- Bệnh nhân: Người bệnh.
- Dứt điểm: Hoàn thành.
- Học đường: Trường học.
- Bất khả kháng: Khó giải quyết.
- Khu chung cư: Khu nhà ở.
- Cam go: Gây tranh cãi.
- Họ tộc: Dòng họ.
- Lễ động thổ: Lễ khởi công.
- Photocopy: Sao chụp.
- Quán triệt: Hiểu thấu, thấu hiểu.
- Quan niệm: Suy nghĩ.
- Cố hương: Quê cũ, quê gốc.
- Xâm nhập: Đi sâu.
- Mục sở thị: Nhìn nhận.
- Hợp long: Nối nhịp.
- Vĩ đại: To lớn.
- Hiện hữu: Xuất hiện, có mặt.
- Sống có thủy có chung: Sống có trước có sau, có đầu có cuối.
Tất nhiên, các ví dụ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong số những trường hợp cần xem xét. Quan trọng nhất, việc chuyển đổi từ Hán Việt sang tiếng Việt thuần chỉ nên được thực hiện ở những trường hợp phù hợp, không áp dụng cho mọi văn bản và mọi ngữ cảnh. Vì vậy, các từ Hán Việt chưa được chuyển đổi vẫn có thể tiếp tục sử dụng bình thường và không thể thay thế.
Việc giảm sử dụng từ Hán Việt là việc cần thiết đối với các tác giả, biên tập viên, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, và những người yêu quý và trân trọng tiếng Việt. Cách viết trên báo chí, trong sách vở, trong nhà trường có ảnh hưởng lớn đến nhận thức, thói quen giao tiếp và viết lách của người đọc, người nghe, và người dùng Internet. Sự thay đổi của ngôn ngữ cũng có thể xảy ra, nhưng không phải là một quá trình lớn. Ngay cả khi có những thói quen sử dụng sai, nếu có thể sửa được thì vẫn nên chỉnh sửa. Con người sinh ra để sáng tạo và điều khiển ngôn ngữ, chứ không phải ngược lại.