Đề thi thử HSG môn Địa lí 12
Mục lục
- 1. Tại sao vùng tiếp xúc của các mảng kiến tạo là những vùng bất ổn của vỏ Trái Đất?
- 2. Hiện tượng ngày địa cực và đêm địa cực trên Trái Đất
- 3. Sự khác nhau về cơ sở thức ăn đã dẫn đến sự khác nhau trong cơ cấu vật nuôi và hình thức chăn nuôi
- 4. Ý nghĩa của việc khai thác các nguồn lực bên ngoài đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước đang phát triển hiện nay
- 5. Đặc điểm chế độ nước của hệ thống sông Hồng
- 6. Bài viết liên quan:
- 7. Sống chung với lũ là cách ứng xử tốt nhất đối với tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long
- 8. Sự phân hóa trong sản xuất lúa của nước ta
- 9. Trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng có trình độ đô thị hóa thấp
- 10. Đô thị hóa bền vững là mục tiêu quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội của nước ta
Tại sao vùng tiếp xúc của các mảng kiến tạo là những vùng bất ổn của vỏ Trái Đất?
Theo thuyết kiến tạo mảng, vỏ Trái Đất trong quá trình hình thành đã bị gãy vỡ, tách ra thành những mảng cứng, gọi là các mảng kiến tạo. Các dòng đối lưu vật chất trong tầng Manti trên đã làm cho các mảng kiến tạo dịch chuyển và có các tiếp xúc tách dãn hoặc dồn ép hay chờm lên nhau. Các hoạt động kiến tạo chủ yếu của Trái Đất thường xảy ra tại ranh giới tiếp xúc giữa các mảng kiến tạo. Khi hai mảng kiến tạo xô vào nhau hoặc chờm lên nhau thì có thể hình thành các dãy núi cao hoặc các vực biển sâu. Khi hai mảng tách xa nhau, các vết nứt tách dãn, macma sẽ trào lên, tạo ra các dãy núi ngầm, kèm theo hiện tượng động đất hoặc núi lửa.
Hiện tượng ngày địa cực và đêm địa cực trên Trái Đất
Ngày địa cực là hiện tượng ngày dài suốt 24 giờ. Đêm địa cực là hiện tượng đêm dài suốt 24 giờ. Các hiện tượng này xảy ra từ vòng cực về phía cực. Tại vòng cực có 1 ngày hoặc đêm địa cực. Càng gần cực, số ngày và đêm địa cực tăng dần. Ở 2 cực số ngày và đêm địa cực dài 6 tháng.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do Trái Đất vừa chuyển động tự quay quanh trục và chuyển động tịnh tiến quanh Mặt Trời với trục nghiêng 66°33′ so với mặt phẳng Hoàng đạo. Do vậy chỉ từ vòng cực đến cực mới có hiện tượng đường phân chia sáng tối nằm trước hoặc sau vòng cực, dẫn đến thời gian chiếu sáng hoặc khuất trong bóng tối ở khu vực này dài 24h sinh ra hiện tượng ngày địa cực hoặc đêm địa cực.
Sự khác nhau về cơ sở thức ăn đã dẫn đến sự khác nhau trong cơ cấu vật nuôi và hình thức chăn nuôi
Cơ sở thức ăn ảnh hưởng đến cơ cấu vật nuôi và hình thức chăn nuôi. Ở nơi có thiên nhiên trù phú, đồng cỏ xanh tốt, vật nuôi phổ biến là bò. Ở nơi thiên nhiên khắc nghiệt, đồng cỏ khô cằn, vật nuôi phát triển cừu, dê, lạc đà. Ở nơi đồng bằng phù sa màu mỡ, cây lương thực phát triển mạnh, tập trung nuôi lợn, gia cầm. Cơ sở thức ăn ảnh hưởng đến hình thức chăn nuôi. Đồng cỏ tự nhiên là cơ sở cho phát triển chăn nuôi theo hình thức chăn thả. Thức ăn do người trồng là cơ sở cho chăn nuôi nửa chuồng trại và chuồng trại. Thức ăn qua công nghiệp chế biến là cơ sở cho nuôi theo hình thức công nghiệp.
Ý nghĩa của việc khai thác các nguồn lực bên ngoài đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước đang phát triển hiện nay
Nguồn lực bên ngoài bao gồm vốn, khoa học kĩ thuật, công nghệ, nguồn lao động chất lượng, kinh nghiệm quản lí, thị trường, nguồn nguyên nhiên vật liệu,… có ý quan trọng, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển có xuất phát điểm về kinh tế – xã hội thấp, quá trình công nghiệp hóa gặp nhiều khó khăn về vốn, kĩ thuật, khoa học công nghệ, nguồn lao động kĩ thuật, thiếu kinh nghiệm quản lí.
Việc khai thác các nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng bởi:
- Giúp chuyển giao khoa học kĩ thuật công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực phát triển, tranh thủ đi tắt đón đầu các ngành kĩ thuật cao, thúc đẩy quá trình hội nhập, tránh nguy cơ cơ tụt hậu.
- Giúp khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước.
- Mở rộng thị trường, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.
Đặc điểm chế độ nước của hệ thống sông Hồng
Hệ thống sông Hồng là một hệ thống sông lớn, bắt nguồn từ cao nguyên Vân Quý ở Trung Quốc và chảy vào lãnh thổ nước ta. Hệ thống này có dòng chính là sông Hồng với nhiều phụ lưu và chi lưu, trong đó các phụ lưu lớn nhất là sông Đà, sông Thao và sông Lô hợp tại Việt Trì tạo ra mạng lưới sông hình nan quạt. Hướng chảy của hệ thống sông Hồng là từ tây bắc đến đông nam.
Chế độ nước của hệ thống sông Hồng có những đặc điểm sau:
Bài viết liên quan:
- Tổng lưu lượng nước lớn, do sông dài và diện tích lưu vực rộng, cùng với lượng mưa trung bình năm cao. Ngoài ra, hệ thống sông Hồng còn được bổ sung nước từ các lưu vực ngoài lãnh thổ.
- Chế độ dòng chảy của sông chia ra thành hai mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ tương ứng với mùa mưa và mùa cạn tương ứng với mùa khô.
- Mùa lũ kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, chiếm hơn 70% lưu lượng nước cả năm. Đỉnh lũ là tháng 8, chiếm khoảng 20% tổng lượng nước trong năm do đây là thời kỳ có dải hội tụ nhiệt đới hoạt động gây mưa lớn.
- Mùa cạn kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5, chiếm 30% tổng lượng dòng chảy trong năm. Đỉnh cạn là tháng 3, do đây là thời kỳ hoạt động của gió mùa đông bắc với tính chất lạnh khô.
- Sự chênh lệch lưu lượng nước giữa mùa lũ và mùa cạn lớn. Tổng lượng nước mùa lũ lớn hơn nhiều lần tổng lượng nước trong mùa cạn, đỉnh lũ gấp nhiều lần đỉnh cạn do chênh lệch lượng mưa giữa 2 mùa lớn.
- Đặc điểm lũ của hệ thống sông Hồng là lũ lên nhanh, đột ngột, rút chậm do mưa trên toàn lưu vực cùng thời gian. Do sông có mạng lưới hình nan quạt, độ dốc lòng sông phần trung và thượng lưu lớn cùng với thảm thực vật bị tàn phá, nên lượng nước thường tập trung lớn, gây lũ đột ngột. Lũ sông lên nhanh nhưng rút chậm do sông có ít chi lưu.
Sống chung với lũ là cách ứng xử tốt nhất đối với tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long
Lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu do hệ thống sông Cửu Long mang lại trong mùa mưa. Sông Cửu Long dài, diện tích lưu vực lớn, dạng lông chim nên tập trung nước, tổng lượng nước lớn, có hồ Tônlêxap điều tiết nước, nên lũ tương đối điều hòa và kéo dài trong nhiều tháng.
Mùa lũ hàng năm mang lại nhiều lợi ích cho người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long như tôm, cá, phù sa ngọt, nước ngọt rửa phèn, mặn trong đất. Đã từ lâu, người dân đã thích ứng với mùa lũ, các tập quán sản xuất, ngành nghề, giống cây trồng và nếp sống của người dân được định hình.
Với địa thế thấp, địa hình khá bằng phẳng, nền vật liệu vụn bở, lượng nước tập trung quá lớn trong mùa lũ và tác động của thủy triều, nên ở Đồng bằng sông Cửu Long khó có thể đắp đê dọc theo các hệ thống sông, chỉ có thể đắp đê bao theo từng vùng.
Sự phân hóa trong sản xuất lúa của nước ta
Sản xuất lúa của nước ta có sự phân hóa rõ rệt về mặt lãnh thổ. Theo số liệu thống kê, các vùng có mức độ tập trung trồng lúa cao như Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng chiếm phần lớn diện tích trồng lúa của cả nước và tạo ra sản lượng lúa lớn. Trong khi đó, các vùng miền núi như Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Trung du miền núi Bắc Bộ có diện tích trồng lúa và sản lượng lúa thấp hơn.
Sự phân hóa trong sản xuất lúa phụ thuộc vào cơ sở thực phẩm khác nhau ở từng vùng. Ở nơi có thiên nhiên trù phú, đồng cỏ xanh tốt, vật nuôi phổ biến là bò. Ở nơi thiên nhiên khắc nghiệt, đồng cỏ khô cằn, vật nuôi phát triển cừu, dê, lạc đà. Ở nơi đồng bằng phù sa màu mỡ, cây lương thực phát triển mạnh, tập trung nuôi lợn, gia cầm. Hình thức chăn nuôi cũng thay đổi tùy theo cơ sở thức ăn. Đồng cỏ tự nhiên là cơ sở cho phát triển chăn nuôi theo hình thức chăn thả, thức ăn do người trồng là cơ sở cho chăn nuôi nửa chuồng trại và chuồng trại, thức ăn qua công nghiệp chế biến là cơ sở cho nuôi theo hình thức công nghiệp.
Trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng có trình độ đô thị hóa thấp
Trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng có trình độ đô thị hóa thấp. Tỉ lệ dân thành thị trong vùng này chiếm 24,3% tổng dân số cả nước. Mạng lưới đô thị thưa thớt và phân tán. Quy mô dân số đô thị nhỏ, chỉ có một số ít đô thị lớn như Thanh Hóa và Hà Tĩnh.
Nguyên nhân của trình độ đô thị hóa thấp ở vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là do trình độ phát triển kinh tế thấp, công nghiệp và dịch vụ kém phát triển, đặc biệt ở vùng núi. Đồng thời, mật độ dân số thấp cũng khiến quy mô đô thị nhỏ và phân tán. Ngoài ra, các yếu tố khác như nhiều đơn vị hành chính, nông nghiệp – lâm nghiệp có vai trò quan trọng trong vùng này.
Đô thị hóa bền vững là mục tiêu quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội của nước ta
Đô thị hóa bền vững đang trở thành mục tiêu quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Hiện tại, quá trình đô thị hóa đang diễn ra chậm, trình độ đô thị hóa còn thấp, tỷ lệ dân thành thị vẫn thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phân bố đô thị không đều trên lãnh thổ.
Đô thị hóa bền vững là mục tiêu quan trọng bởi nếu đô thị hóa không bền vững và không gắn với sự phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng như tình trạng thiếu việc làm, vấn đề nhà ở, kết cấu hạ tầng đô thị quá tải, ô nhiễm môi trường, xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Ngược lại, nếu đô thị hóa bền vững và phát triển gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, sẽ mang lại tác động tích cực về kinh tế – xã hội. Đô thị hóa bền vững góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, đô thị hóa còn tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tác động gây ô nhiễm môi trường.