Ca trù là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng và triết lý sống của người Việt. Đây là một kho tàng âm nhạc độc đáo và mang ý nghĩa đặc biệt trong văn chương và âm nhạc của Việt Nam.
Ca trù và các không gian trình diễn
Hình thức ca trù được biểu diễn qua các không gian trình diễn chính như hát cửa đình, hát cửa quyền, hát tại gia, hát thi và hát ca quán. Mỗi không gian trình diễn đều có cách thức biểu diễn khác nhau. Ca trù thường được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, dưới sự quản lý của trùm phường và quản giáp. Các nguyên tắc và quy định của ca trù bao gồm việc truyền nghề, học đàn, học hát và lễ mở xiêm áo để cho phép đào nương vào nghề. Biểu diễn ca trù cần ít nhất 3 người tham gia: một ca nương, một nam nhạc công đệm đàn đáy và một người điểm trống chầu gọi là quan viên.
Các thể cách trong ca trù
Ca trù có nhiều thể cách để chứa đựng các làn điệu hát, hình thức diễn xướng, múa, nghi lễ và thi cử. Mỗi thể cách có những đặc trưng riêng. Ca trù kết hợp giữa âm nhạc và múa diễn kỹ thuật để tạo ra những trình diễn đa dạng và phong phú. Hiện có 99 thể cách ca trù đã được ghi nhận, được chia thành 3 nhóm chính: nhóm hát thuần túy, nhóm kết hợp hát-múa-diễn và nhóm nghi lễ và trình diễn nghề trong thi cử.
Thơ và múa trong ca trù
Thơ đóng một vai trò quan trọng trong ca trù. Ca từ của ca trù mang tính uyên bác, giàu chất thơ và nhiều cảm xúc. Kỹ thuật hát ca trù đòi hỏi sự tinh tế và công phu. Đào nương không cần há to miệng hay đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, mang đến lời ca rõ ràng và tròn đầy. Các thể thơ quen thuộc và thuần Việt được sử dụng và thể hiện trong ca trù như lục bát, song thất lục bát và thể thơ khác.
Múa là yếu tố quan trọng trong ca trù, tạo nên sự đặc sắc văn hóa và nét riêng biệt. Có nhiều điệu múa được sử dụng trong ca trù như múa Bài Bông, múa Đại Thạch, múa Bỏ Bộ và múa Tứ Linh.
Ca trù là một nghệ thuật đặc biệt của người Việt, gắn kết văn hóa và truyền thống. Đây là một di sản quý Giữa văn hóa Việt Nam.