Bài thơ “Lá Diêu Bông” của Hoàng Cầm là câu chuyện về mối tình đầu đáng nhớ trong cuộc đời của tác giả. Đêm năm 1959, vào khoảng 3 giờ sáng, tôi tỉnh giấc và không thể ngủ tiếp. Khu phố Lý Quốc Sư im lặng, không tiếng xe cộ ồn ào như hiện tại, tạo nên sự yên tĩnh đặc biệt của đêm. Lúc đó, trong tâm trí tôi vang lên một vài câu thơ do một người phụ nữ đọc bằng giọng lanh lảnh: “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…”.
Tôi lấy ngay chiếc bút chì và tập giấy để ghi lại những dấu vết mờ mịt của ký ức, hình ảnh của người phụ nữ, người chị của tôi từng nét tạo nên bài thơ hoàn chỉnh.
Tôi còn nhớ, khi tôi 4 tuổi, gia đình tôi chuyển từ làng quê lên sống ở một phố nhỏ dọc theo quốc lộ. Dù được gọi là phố nhưng chỉ có khoảng 14, 15 ngôi nhà ven đường, cách thị xã Bắc Giang khoảng 6 cây số. Nhà tôi hướng về phía tây, phía trước là con đường, phía sau nhà là một mảnh vườn nhỏ có hàng rào dâm bụt, kế đó là đường xe lửa. Người dân trong phố làm nghề thợ may, thợ cắt tóc. Cha tôi làm nghề bán thuốc bắc và mẹ tôi buôn bán hàng xé của. Lên 5 tuổi, cha tôi đã cho tôi đi học, nhưng vì phải đi xa, dọc đường thường bị bạn bắt nạt, nên năm sau cha tôi đã đưa tôi lên tỉnh học. Lúc 6 tuổi, tôi đã đọc viết thành thạo, còn biết vẽ chữ Pháp, nên được nhận vào trường công ở thị xã Bắc Giang. Tôi được ở nhà thầy giáo Núi Tiết. Mỗi chiều thứ bảy, sau giờ học tôi đi đến sân ga, mua vé và đi tàu trong vòng 10 phút là về đến ga gần nhà. Lúc đó việc đi tàu rất dễ dàng, nên tôi không sợ đi một mình.
Cuộc sống của một đứa trẻ trôi qua yên bình, nhưng sự thay đổi trong tình cảm đã để lại nhiều suy tư trong tôi. Năm đó, tôi lên 10 tuổi và đã học đến lớp ba. Một buổi chiều thứ bảy, tôi về nhà như mọi thứ vẫn bình thường. Đứng ngoài sân nhìn vào trong nhà, tôi thấy một phụ nữ đang cúi xuống và chọn mua hàng xé của mẹ tôi. Cô ấy mặc áo phin trắng và đeo chiếc gilê màu thẫm. Khi ánh nắng chiếu vào mặt cô ấy, khuôn mặt của cô rực sáng, tôi cảm thấy bị mê hoặc. Mặc dù tôi chưa hiểu về tình yêu, nhưng từ khi lên 10 tuổi, tôi đã bị khuôn mặt ấy làm cho ngây ngất suốt buổi chiều. Sau khi mua hàng, cô ấy đi về phía tôi và khi đi qua, tôi nhìn theo. Tôi biết cô ấy là hàng xóm, sống trong căn nhà bên kia đường gần nhà tôi. Sau khi hỏi mẹ, tôi biết rằng gia đình đó mới chuyển đến và có bố mẹ và một em trai nhỏ. Thật ra, tuần trước khi tôi về, tôi chưa gặp cô ấy. Tên cô ấy là Vinh. Cả ngày chủ nhật hôm sau, tôi không thôi nhìn sang nhà bên kia, chờ đợi xem cô ấy có xuất hiện không. Đến sáng thứ hai tôi lại quay trở về thị xã. Khi đến Bắc Giang, tôi viết ngay một bài thơ gửi cho Vinh, theo thể lục bát. Lúc đó, tôi chưa học niêm luật, nhưng tôi đã biết làm thơ lục bát. Khi ở nhà thầy giáo, mỗi tối, trước khi đi ngủ, các bà và chị trong xóm thường gọi tôi xuống đọc truyện cho mọi người nghe, trong khi họ làm các công việc như giần sàng thóc và gạo. Mỗi tối, tôi đọc khoảng một tiếng rồi đi ngủ, các bà thường thường thưởng tôi bằng chè hoặc kẹo. Nhờ thế, tôi đã đọc hết tất cả các truyện thơ dân gian, từ “Phạm Công Cúc Hoa”, “Nhị độ mai” đến “Hoàng Trừu”… Tôi có giọng hát tốt và biết ca ngợi, nên được các bà tin tưởng, và nhờ đó, tôi tự nhiên biết cách gieo vần. Tôi viết bài thơ trên một tờ giấy học sinh. Ở trang đầu, tôi viết bốn câu thơ về hoa bướm, và trang sau tôi viết tiếp phần còn lại của bài thơ. Tuy không nhớ nội dung chính xác của bài thơ tình đầu, nhưng tôi chỉ nhớ rằng tôi viết dòng chữ “Em gửi chị Vinh của em” lên đầu trang giấy. Tôi bỏ bài thơ vào phong bì, chờ đến lúc về nhà để trao tận tay và nói: “Em gửi chị cái này.” Chị không mở xem bài thơ, chỉ cười nhẹ và cất vào túi mà không nói gì thêm. Từ đó, không chỉ về nhà vào chiều thứ bảy, mà ngày thứ năm tôi cũng được nghỉ để có thể gặp chị. Ngày nghỉ, bất cứ khi nào tôi thấy chị đi đâu là tôi cũng theo sau, đôi khi chị thấy tôi theo thì chị lấy tay dẫn tôi đi cùng. Mỗi khi chị đem chăn đi giặt sông, tôi cũng đi theo và ngồi trên bờ nhìn chị cúi người giặt chăn ven sông. Tình yêu của tôi dành cho chị chỉ như vậy, nhưng nó mãnh liệt và cảm xúc đó kéo dài suốt năm tháng. Tôi lớn lên và tình yêu trong lòng ngày càng mãnh liệt, nhưng tôi không biết làm thế nào để bày tỏ tình cảm của mình. Khi tôi lên 12 tuổi, trong những đêm trăng sáng, Vinh thường tụ tập nhóm trẻ em từ 10 đến 15 tuổi, cả trai lẫn gái, để hát chung trên bãi cỏ sau ga. Vinh có giọng ca tốt, thường hát những bài quan họ cùng với một vài chị trong xóm. Chúng tôi được Vinh dạy hát các loại dân ca như Trống quân, Cò lả… Khi đứng hát, tôi thường chen vào đứng cạnh Vinh, đôi khi tôi đứng trước Vinh, đầu tôi vừa ngang tầm ngực của cô. Có khi Vinh ôm vai tôi, tôi ngả đầu vào ngực cô, Vinh nhẹ nhàng vuốt ve vai tôi. Tôi có một cảm giác lạ, đó là những giờ phút say mê nhất trong cuộc đời tôi. Những đêm tháng 9, 10, khi trời se lạnh, tôi đứng dưới gốc cây trên bãi cỏ, tôi cảm nhận được sự ấm áp từ người Vinh. Có vẻ như Vinh cũng nhận ra sự ham muốn của tôi. Mặc dù tôi còn trẻ, nhưng tôi là một cậu bé tuấn tú, biết học hành, khác biệt với những đứa trẻ khác trong xóm. Mặc dù tôi được Vinh ôm trong lòng, nhưng tôi chưa bao giờ dám ôm Vinh trước. Lần đó, trong dịp lễ Giáng Sinh, tôi được nghỉ mấy ngày. Tôi đứng ngoài sân và thấy Vinh đi ra cánh đồng. Tôi vội theo sau. Khi thấy Vinh đi xuống ruộng, xới các bụi cây dại ven ruộng, tôi lảo đảo đi theo, không biết cô ấy có nhìn thấy tôi không. Vinh bỗng dưng ngẩng lên và hỏi: “Tại sao mày cứ theo tôi như vậy?” Tôi không trả lời, nhưng cảm thấy vui vẻ vì đã được Vinh chú ý. Rồi Vinh dừng lại và nhìn vào mắt tôi nói: “Chị đang tìm lá…”. Vinh nói thêm: “Người nào tìm được thì chị gọi là chồng…”. Nghe những lời đó, tôi cảm thấy vui sướng tột cùng, nhiệt huyết trong tôi bùng cháy. Tôi nghĩ rằng lá đó là điều kỳ diệu, có thể dùng làm thuốc, hoặc đắp lên mặt như các cô gái thường làm. Tôi cảm nhận tình yêu mãnh liệt giữa chị và tôi, tình yêu giống như tình yêu tôi dành cho mẹ. Tôi không có chị gái nên đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận một tình yêu đối với một người chị.
Hai mươi lăm năm sau, câu chuyện đi tìm lá của Vinh tái hiện trong bài thơ mà tôi đã đặt tên là “Lá Diêu Bông”. Chị đắm chìm trong tình yêu, tìm kiếm vẫn cứ đi về. Vinh cười và trò chuyện với tôi trong chiều hôm đó. Bà mẹ đã già nhưng vẫn nhớ tôi, hỏi thăm cha mẹ tôi. Sau một lát, bà bảo bà phải đi làm việc trong làng và có thể không về tối, tôi có thể ở lại và ăn cơm với họ. Em trai Vinh đã lớn và đi cùng với mẹ. Cả hai có vẻ như biết rằng giữa tôi và Vinh còn nhiều điều muốn nói với nhau. Vinh kéo tôi ngồi xuống, nắm tay tôi và ngồi cạnh lưng tôi. Tôi nhẹ nhàng vuốt ve tay Vinh. Vinh kể cho tôi nghe về cuộc sống sau khi cô lấy chồng. Vinh lấy ông Quản và có một đứa con. Mẹ con Vinh vẫn kinh doanh như trước. Nhưng dần dần ông Quản bỏ cô và đi cùng người khác. Cuối cùng, ông đã đuổi chị Vinh cùng con đi. Gia đình chị không muốn quay trở lại nơi cũ nên họ đã quyết định đến Sen Hồ. Tôi ngước nhìn Vinh. Lúc đó, trong lòng tôi không còn tình yêu say đắm của tuổi thơ. Tôi chỉ cảm thấy thương cho một người đã trải qua những gian khổ, nhan sắc đã phai tàn. Bảy tám năm đã trôi qua, nhưng hình ảnh của Vinh từ khi tôi lên 10 tuổi vẫn còn đọng mãi trong tâm trí tôi.
Người ta nói: “Tình yêu đầu là tình yêu mãnh liệt nhất”. Tôi đã tìm lại ký ức của tình yêu đầu với bài thơ “Lá Diêu Bông”.